Theo kế hoạch
tác chiến, bộ đội tên lửa là lực lượng nòng cốt đánh tiêu diệt máy bay
B-52; bộ đội không quân tiêm kích là lực lượng tiến công phá vỡ và gây
rối loạn đội hình máy bay địch đồng thời là lực lượng công kích bắn hạ
B-52; bộ đội pháo cao xạ đảm nhiệm bắn máy bay tiêm kích và cường kích
của địch. Ngoài ra, bộ đội rađa và lực lượng dân quân tự vệ cùng phối
hợp chiến đấu. Sự phối hợp tác chiến nhịp nhàng, hiệu quả giữa các lực
lượng, các binh chủng và các đơn vị bảo đảm góp phần làm nên thắng lợi
của chiến dịch.
Chiến công của Trung tướng Nguyễn Đức Soát và đồng đội đã làm không
quân Mỹ nể phục. Sau này, trong một buổi giao lưu hữu nghị giữa cựu phi
công Việt Nam và Mỹ, Đại úy John P Cerak, người bị bắn rơi trong trận
chiến ngày 27/6/1972, thắc mắc: “Vì sao chúng ta vừa nhìn thấy nhau mà
ông lại có thể bắn rơi tôi được?”
Trung tướng Nguyễn Đức Soát giải thích rằng ông đã phán đoán được máy
bay địch sẽ hạ độ cao dưới 4.000m để F-4 phát huy lợi thế trước MiG-21.
Ông suy nghĩ làm thế nào để vòng ra phía sau F-4 rồi phóng tên lửa mà
không bị phát hiện. Thế là, ngay lập tức phi công Nguyễn Đức Soát giảm
tốc độ máy bay bằng cách giảm tốc độ vòng quay của động cơ xuống mức
thấp nhất, rồi thả cánh cản... Chiếc máy bay MiG-21 khựng lại rồi chỉ
vài chục giây sau, chiếc F-4 của Mỹ đã vọt lên phía trước.
Vậy là tướng Soát đã bám được phía sau, ông tăng tốc đuổi theo và
phóng tên lửa. Máy bay Mỹ rơi mà phi công vẫn không thể hiểu được tại
sao lại bị bắn rơi. Họ vẫn cho rằng đã có một tốp MiG-21 khác bay thấp
hơn bắn rơi F-4 chứ không phải chiếc MiG-21 của Trung tướng Nguyễn Đức
Soát.
Nhấp một ngụm trà, ông kể thêm một kỷ niệm khác, đó là việc một cựu
phi công Mỹ đã từng hỏi: “Ông Soát đã bắn rơi 6 máy bay của chúng tôi.
Hẳn ông rất ghét người Mỹ?”
Đáp lại câu hỏi này, tướng Soát trả lời gãy gọn: “Khi chiến đấu, tôi
chỉ nghĩ là phải bắn rơi máy bay chứ không nghĩ đến việc bắn chết người
phi công. Đó là điều khác biệt giữa trận chiến bộ binh và không chiến.
Lính bộ binh bắn vào nhau, còn tôi lúc đó chỉ nhìn thấy chiếc máy bay
địch xâm phạm bầu trời quê hương mình.”
‘Rồng lửa’ 10 phút diệt 2 ‘giặc trời’
Ký ức của nhiều người dân miền Bắc vẫn còn in đậm hình ảnh từng đoàn,
từng đoàn “Rồng lửa” (tên lửa S-75 hay SAM-2) xé màn đêm lao vun vút
trên trời cao, “vít cổ” dàn máy bay B-52, đập tan cuộc tấn công của đế
quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác ở miền
Bắc.
Giải thích về cách đánh B-52 của bộ đội tên lửa, Đại tá, Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Kiên nói bí quyết bắn rơi “giặc
trời” B-52 nằm ở kỹ năng “vạch nhiễu tìm thù.”
Trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không,” ông là sỹ quan trực tiếp
tham gia chiến đấu, bắn rơi 4 máy bay B-52 của không quân Mỹ.
Đại tá Nguyễn Đình Kiên nhớ lại: "'Pháo đài bay' B-52 có trang bị rất
nhiều máy gây nhiễu. Mỗi khi xuất kích, đội hình B-52 được hộ tống rất
chặt chẽ bởi các máy bay tiêm kích ở cùng độ cao, cùng đủ loại nhiễu để
đánh lừa bộ đội phòng không của ta. Nhiễu nhòe nhoẹt màn hình rađa.
Trước mắt chúng tôi chỉ là một màn sương mù, sáng trắng.”
Rồi dần dần các chiến sỹ trấn tĩnh lại, liên hệ với những điều đã
học, nhắc nhau thao tác thật chính xác. Cuối cùng, tuy kẻ thù chưa hiện
ra thực sự nhưng họ có thể phán đoán được bóng dáng của chúng phía sau
những dải nhiễu.
Nhờ đó mà Tiểu đoàn 57, Trung đoàn 261, Sư đoàn 361 (Quân chủng Phòng
Không-Không quân) của Đại tá Nguyễn Đình Kiên đã lập kỳ tích bắn rơi 2
máy bay B-52 chỉ trong 10 phút.
Trong màn nhiễu dày đặc, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt, sỹ quan
điều khiển tên lửa Nguyễn Đình Kiên và 3 trắc thủ Mè Văn Thi, Ngô Văn
Lịch, Nguyễn Xuân Đài nhanh chóng xác định vị trí một chiếc B52.
Địch vào cự ly 35km, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt hạ lệnh phóng
nhưng quả đầu tiên bị hỏng. Sỹ quan điều khiển Nguyễn Đình Kiên phóng
tiếp quả đạn thứ 2, bắn rơi B-52 ở cự ly 25km.
“Lúc này là 5 giờ 9 phút ngày 21/12/1972. Niềm vui tràn ngập trận
địa. Nhưng không hề có phút giây hò reo mừng chiến công, chúng tôi giữ
niềm hân hoan trong lòng, hết mực chú tâm vào màn hình,” Đại tá Nguyễn
Đình Kiên kể.
Ngay sau đó, tiếng hô của một chiến sỹ vang lên: "B52 cự ly 45km." Lúc này, trên bệ phóng còn duy nhất 1 quả tên lửa.
Khi tín hiệu máy bay địch vào đến cự ly 35km, Tiểu đoàn trưởng ra
lệnh tiêu diệt. Sỹ quan Nguyễn Đình Kiên lập tức ấn nút phóng. Đạn gặp
mục tiêu ở cự ly 24km. Nhìn trên màn hình, các chiến sỹ thấy vạch nhiễu
không còn, họ xác định mục tiêu bị tiêu diệt. Đồng hồ chỉ 5 giờ 19 phút
ngày 21/12/1972.
“'Pháo đài bay' B-52 có trang bị rất nhiều máy gây nhiễu. Mỗi
khi xuất kích, đội hình B-52 được hộ tống rất chặt chẽ bởi các máy bay
tiêm kích ở cùng độ cao, cùng đủ loại nhiễu để đánh lừa bộ đội phòng
không của ta. Nhiễu nhòe nhoẹt màn hình rađa. Trước mắt chúng tôi chỉ là
một màn sương mù, sáng trắng."
Đại tá Nguyễn Đình Kiên
Nhớ lại chiến công đặc biệt đó, anh hùng Nguyễn Đình Kiên cho rằng
quân ta thắng nhờ tinh thần quả cảm và sáng tạo trong chiến đấu.
“Sự sáng tạo ấy thể hiện ở hai yếu tố: Một là kinh nghiệm chống
nhiễu, hai là cải tiến khí tài tốt. Cụ thể, trước đây đầu đạn tên lửa
chỉ có 320 mảnh, sau đó được cải tiến lên thành hơn 3.000 mảnh đạn, nhờ
đó mà nâng cao hiệu quả chiến đấu," Đại tá Nguyễn Đình Kiên nói.
Trong cuộc đời quân ngũ, chưa bao giờ ông cảm thấy vất vả và ác liệt
như 12 ngày đêm trong chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên phủ trên không.” Ông
cũng chưa bao giờ thôi phấn khởi, tự hào về binh chủng, đơn vị mình như
thời gian này.
“Ngồi nghĩ lại những ngày đã qua, tôi cảm thấy không hổ thẹn với cuộc
đời vì những ngày đó tôi đã sống và chiến đấu không phí hoài tuổi trẻ,”
ông Kiên nói.
Ông cho rằng bản thân kíp chiến đấu của mình chỉ là những người đưa
quả đạn vào đúng mục tiêu, còn chiến công là của cả tập thể gần 100 con
người của Tiểu đoàn 57 ngày đêm chăm lo đảm bảo vũ khí, khí tài để cho
kíp chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Sáng mãi tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
Nhận định về Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không,” tiến sỹ Nhị Lê,
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng dù nước Việt Nam
không lớn, quân đội Việt Nam không có nhiều vũ khí, nhưng người Việt Nam
có nghệ thuật quân sự của riêng mình. Đó là nghệ thuật quân sự dựa vào
nhân dân, lấy đoàn kết và quyết tâm làm sức mạnh.
“Chiến thắng này là kết quả của sức mạnh tổng hợp trên nền móng
truyền thống mấy ngàn năm giữ nước của dân tộc, từ ý chí quyết tâm đến
cách đánh sáng tạo; sơ tán để bảo vệ nhân dân, giữ gìn lực lượng dự bị
hỗ trợ chiến đấu; đoàn kết toàn dân tộc đến sức mạnh ủng hộ của quốc
tế,” tiến sỹ Nhị Lê đánh giá.
Trận quyết chiến chiến lược “Điện Biên Phủ trên không” thêm một lần
nữa chứng minh chân lý giản dị: “Không quân đội nào, không khí giới nào
có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc” như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
Chiến công chói lọi năm 1972 không chỉ đưa dân tộc ta đi tới thắng
lợi cuối cùng năm 1975, mà còn đưa Hà Nội-Việt Nam lên tầm quốc tế.
Phó giáo sư-tiến sỹ Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử
quân sự (Bộ Quốc phòng) cho rằng Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên
không” cũng là chiến thắng của chính nghĩa, có được nhờ sự giúp đỡ có
hiệu quả của bạn bè quốc tế, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ toàn thế
giới, kể cả nhân dân dân Mỹ.
“Trong tâm tưởng và cách nhìn của bạn bè quốc tế, Việt Nam là lương
tri của thời đại, và ‘Điện Biên Phủ trên không’ như là một biểu tượng
của văn hóa quân sự, văn hóa giữ nước Việt Nam trong thế kỷ XX,” phó
giáo sư-tiến sỹ Vũ Quang Đạo nhận định.
Theo ông, những bài học về dự báo chiến lược, hiểu và nắm chắc địch,
tổ chức, xây dựng lực lượng, về trang bị vũ khí, về xây dựng và phát huy
thế trận chiến tranh nhân dân và đặc biệt là chuẩn bị nhân tố con người
trong chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn nguyên giá
trị trong tình hình mới.
“Bảo vệ Tổ quốc đang và sẽ đặt ra với tất cả các mặt trận, trong đó
chắc chắn phải tính đến là mặt trận phòng không,” ông Vũ Quang Đạo nói.
“Tròn 50 năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên
Phủ trên không” vẫn còn mãi vang vọng, bởi dù ở thời đại nào, người Việt
đều có chung một tình yêu nước, lòng tự tôn dân tộc và khát khao mãnh
liệt rằng “bầu trời quê mẹ luôn xanh trong và mãi mãi bình yên, không bị
vấy bẩn bởi bom đạn quân thù” như tâm nguyện của Trung tướng Nguyễn Đức
Soát."