Bức ảnh “Chiếm Phủ Khâm sai”
trong dịp Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 tại Hà Nội cho thấy không khí cách
mạng sôi sục của nhân dân Thủ đô. Lần giở lại lịch sử để hiểu thêm về
những con người và sự kiện của 67 năm về trước.
Chớp thời cơ khởi nghĩa
Ủy
ban Khởi nghĩa Hà Nội 19-8-1945 ở Hà Nội gồm năm người: Chủ tịch Nguyễn
Khang (ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ phụ trách Hà Nội); ông Nguyễn
Quyết, Bí thư Thành ủy, ủy viên quân sự; ông Lê Trọng Nghĩa, đại diện
cho nhân sĩ, trí thức (Bí thư Đảng đoàn Dân chủ Đảng), ông Trần Quang
Huy, phụ trách công vận và ông Nguyễn Duy Thân, phụ trách tư sản, tiểu
thương. Cố vấn của Ủy ban là ông Trần Đình Long, từng học ở Đại học
Phương Đông Moscow. Trực cơ quan Xứ ủy tại Vạn Phúc, Hà Đông là Thường
vụ Xứ ủy Trần Tử Bình, phụ trách khởi nghĩa ở các tỉnh thuộc đồng bằng
Bắc bộ.
Trong một cuộc gặp với đại tá Nguyễn Duy
Thành, con thứ của ông Nguyễn Duy Thân vào năm 2009, tôi đã thăm bà Phan
Thị Sáng, mẹ của ông Thành. Đã 90 tuổi nhưng bà cụ vẫn minh mẫn. Giở
cho xem bức ảnh lịch sử “Chiếm Phủ Khâm sai” trong chồng ảnh tư liệu, bà
chậm rãi nói: “Đây là báu vật của gia đình. Tác giả là ông Vũ Năng An.
Ông ấy mất cách đây mấy năm. Còn ông Thân nhà tôi mất chỉ sau khi bức
ảnh này được chụp có bảy năm”.
Quê ông Nguyễn Duy
Thân ở làng Đình Bảng, Bắc Ninh, vùng quê Kinh Bắc giàu có với truyền
thống sản xuất, thương mại. Năm 1934, nhờ nhà có điều kiện, ông được ra
Thủ đô Hà Nội ăn học, thi đỗ vào trường Bưởi. Tại đây, ông được giác ngộ
cách mạng và tham gia phong trào thanh niên, học sinh tại trường. Năm
1937, bị mật thám Pháp theo dõi, ông được tổ chức cho thoát ly về dạy
học ở xã Trung Mầu, ven đê sông Đuống. Năm 1940, ông về quê tham gia
thành lập “chi bộ ghép” thuộc huyện Từ Sơn. Về tới xã, ông tuyên truyền
vận động giác ngộ quần chúng cùng anh em, họ hàng thành lập chi bộ đầu
tiên ở xã Đình Bảng. Ông Lê Quang Đạo (sau này là Trung tướng, rồi Chủ
tịch QH), cháu gọi ông Thân là cậu ruột, được ông giới thiệu kết nạp và
là Bí thư đầu tiên của xã. Vừa tham gia sinh hoạt tại chi bộ xã, ông
Thân vừa tham gia hoạt động tại Hà Nội.
Tới năm
1941, ông bị lộ, bị bắt và đày lên Sơn La. Những tháng năm giam cầm ở
nhà tù Sơn La, vì giỏi tiếng Pháp, khi bị tra tấn, ông lý luận với quản
giáo: “Nghe nói nước Pháp dân chủ, văn minh. Vậy cớ sao ở đây các ông
lại hành hạ, đánh đập tù chính trị? Như vậy có dân chủ, văn minh hay
không?”. Đuối lý, kẻ địch phải cho ông - một trong số ít tù chính trị -
không phải mặc quần áo tù. Đầu năm 1945, ông cùng một số tù chính trị ở
Sơn La - lợi dụng tình hình Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương - tổ chức
vượt ngục thành công. Ngay sau đó, ông về Đan Thượng, Phú Thọ xây dựng
“chi bộ ghép” đầu tiên, sau này phát triển sang cả Yên Bái. Ít lâu sau,
ông được cử về tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Nội. Bà con
buôn bán ở Hà Nội, nhất là Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bồ có nhiều doanh
nhân tư sản gốc Đình Bảng, Bắc Ninh. Họ có quan hệ với nhau rất chặt
chẽ. Ông đã tranh thủ tình đồng hương và khơi dậy tinh thần yêu nước của
bà con, vận động ủng hộ Việt Minh.
Đầu tháng
8-1945, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy Bắc kỳ đều lên Tân Trào dự
Quốc dân đại hội. Chiều 15-8, nghe tin trên đài biết Nhật đầu hàng Đồng
minh, Thường vụ Xứ ủy quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội,
giao cho ông Nguyễn Khang làm Chủ tịch, ông Trần Đình Long là cố vấn và
ông Nguyễn Duy Thân là ủy viên phụ trách “giới công thương” cùng các ông
Nguyễn Quyết, Lê Trọng Nghĩa, Trần Quang Huy. Ngày 17-8-1945, chứng
kiến quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Việt Minh biến cuộc
mít-tinh của công chức ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật bảo hộ
thành cuộc tuần hành thị uy cách mạng. Ngày 18-8, Ủy ban Quân sự cách
mạng chuyển vào số nhà 101 Gambette (nay là 101 Trần Hưng Đạo, trụ sở
Viện Khoa học Giáo dục) làm việc. Không khí tấp nập lạ thường.
Sáng
19-8, bà con từ khắp các cửa ô kéo về Bờ Hồ rồi tập trung ở Quảng
trường Nhà hát Lớn. Sau mit-tinh, hàng vạn quần chúng cách mạng từ quảng
trường chia làm hai cánh: Cánh thứ nhất do ông Khang, ông Bình dẫn đầu
tiến công vào Phủ Khâm sai, cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn, sau
đó đánh tiếp ra Sở Bưu điện, Nhà băng Đông Dương…; cánh thứ hai do ông
Nguyễn Quyết chỉ huy tiến công vào Trại Bảo an binh (đối diện rạp chiếu
phim Majestic - nay là rạp Tháng Tám). Ông Thân theo cánh thứ nhất. Ai
cũng phấn khích khi thấy quần chúng cách mạng ào ào tiến tới Phủ. Ông
Trần Tử Bình chỉ thị qua điện thoại, buộc chính quyền các tỉnh phải bàn
giao ấn tín và trụ sở cho Việt Minh. Ông Thân được phân công tiếp nhận
và quản lý công việc hành chính của Phủ Khâm sai.
Bức ảnh lịch sử
Bức
ảnh mà cụ Phan Thị Sáng có được, người bấm máy là ông Vũ Năng An, vốn
là tay chụp ảnh có hạng ở Hà Nội. Sinh năm 1916 tại Nam Định, năm 20
tuổi ông An rời Nam Định vào nam lập thân. Khởi đầu xin học nghề ảnh tại
Studio Géo Thơm ở Sài Gòn, rồi ông là một trong những người vận động
thành lập Hội điện ảnh An Nam vào năm 1937-38. Với sự nhạy cảm của người
cầm máy, ông cố gắng chụp cho được càng nhiều “pô” ảnh ghi lại những sự
kiện thời sự trọng đại càng tốt. Sáng 19-8-1945, ngay tại Quảng trường
Nhà hát Lớn, ông đã chụp được bức ảnh toàn cảnh vô giá về khí thế hừng
hực của quần chúng nhân dân.
Khi về nhà tráng
phim, in ảnh xong, giơ bức ảnh lên xem thì thấy rõ hình ảnh của ông
Nguyễn Duy Thân, mặc áo vét, đầu đội mũ phớt, đang chạy về phía cổng.
Đứng ngay trước ông là người để đầu trần, theo sau ông là người đội mũ
cối... Ông An xúc động, thầm nghĩ sẽ tìm cách tặng cho người ủy viên Ủy
ban Khởi nghĩa Hà Nội bức ảnh này…
Còn bà về Phan
Thị Sáng, trước ngày 19-8 bà đã tham gia vận động quần chúng, chuẩn bị
khởi nghĩa ở Bắc Ninh. Sau này trò chuyện về Tổng khởi nghĩa, ông Lê
Trọng Nghĩa thường nhắc: “Tôi cứ nhớ mãi cái hình ảnh bà Sáng súng buộc
ngang lưng, dõng dạc đứng lên trong hội nghị của Hà Nội chuẩn bị Tổng
khởi nghĩa, nói lại kinh nghiệm của Bắc Ninh: “Các đồng chí khi cướp
được công sở nhớ cử người mang súng cảnh giới, nếu không chỉ cần có
tiếng súng nổ đẹt của mấy tay lính khố xanh, khố đỏ cũng làm bà con hốt
hoảng mà tan rã”. Đầu tháng 8, bà được cùng đoàn đại biểu Bắc Ninh và Hà
Nội (có ông Nguyễn Văn Trân, Trần Quốc Hoàn) đi dự Quốc dân đại hội ở
Tân Trào. Trước ngày khai mạc Đại hội, bà là đại biểu phụ nữ đặc cách dự
Hội nghị Trung ương mở rộng. Sau đó bà trở về Bắc Ninh xây dựng chính
quyền nhân dân.
Bà kể: “Cuối năm 1945, đầu 1946,
quân Tàu Tưởng vào giải giáp quân Nhật, đóng ở bốt Đáp Cầu và rất hay
nhũng nhiễu nhân dân. Khi tỉnh ủy bàn phải đánh thì bà đề nghị phải tiêu
diệt gọn. Sau trận đánh, không ngờ có tên thoát chết, chạy thoát thân
về Hà Nội. Quân Tàu Tưởng hay tin đã kiện Chính phủ ta. Dân thị xã Bắc
Ninh ngày đó còn thêu dệt: Bà Vũ Thị Khôi (bí danh của bà) chỉ huy trận
đánh bốt Đáp Cầu, sau đó lấy ngựa hồng của chỉ huy Tàu chạy khắp thị xã.
Vì có “kiện tụng”, ông Thân được cử lên Bắc Ninh thanh tra. Tới nơi ông
yêu cầu gặp người bị kiện. Đứng trước ông không phải một nam nhi râu
hùm hàm én mà lại là một cô gái trẻ đẹp, mặc áo dài the, đầu chít khăn
mỏ quạ, có “súng sáu” giắt lưng. Ông lặng người thầm nghĩ: tại sao người
con gái nhỏ bé, xinh xắn thế này lại có thể làm cái việc động trời như
vậy? Ngay sau đó ông tìm hiểu rồi nhờ ông Xuân Thủy mai mối. Thấy ông
tài giỏi, đẹp trai lại vào sinh ra tử, cùng chung lý tưởng nên bà nhanh
chóng chấp nhận. Vậy là họ nên vợ nên chồng.
Hai
ông bà cùng là đại biểu Khóa I của QH lập hiến 1946, tham gia xây dựng
những bộ luật đầu tiên của nước Việt Nam mới. Ngày 14-4-1948, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 175, cử ông Nguyễn Khang làm Chủ tịch và ông
Nguyễn Duy Thân làm Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính và Thường
vụ Liên khu một (Việt Bắc). Đến cuối năm 1951, ông Thân được cử đi học
tại Trường Đại học Mác - Lê-nin của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với
một số cán bộ. Sau đó, ông Thân lâm bệnh rồi qua đời ở Bắc Kinh, Trung
Quốc.
Ngày 15-5-2010, bà Phan Thị Sáng ra đi ở
tuổi 91 khi chưa kịp chứng kiến dịp kỷ niệm lần thứ 65 Cách mạng Tháng
Tám 1945 - ngày mà cả dân tộc trong đó có gia đình bà vùng đứng lên Tổng
khởi nghĩa đưa lịch sử của dân tộc lật sang trang mới.