17/05/2010
|
18:14:00
Chùa Trăm Gian
|
Chùa Trăm Gian. (Nguồn: Internet) |
“Quảng Nghiêm tự” là tên chữ của ngôi chùa trên núi Sở thuộc thôn Tiên Lữ,
xã Tiên Phượng, huyện Chương Mỹ. Chùa có quy mô lớn thuộc loại “trăm gian”. Vì
thế chùa có các tên gọi thông dụng là chùa Trăm Gian, chùa Sở, chùa Núi hay chùa
Tiên Lữ.
Xa xưa nơi đây là xã Tiên Lữ, tổng Tiên Lữ, huyện Yên Sơn, phủ Quốc
Oai, trấn Sơn Tây, sau chuyển sang huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông. Từ Hà Đông
theo quốc lộ 6, qua cầu Mai Lĩnh và phía sau thị trấn Chúc Sơn, đi thêm chừng 2km thì rẽ tay phải, men theo chân núi Sở khoảng 3km sẽ tới.
Núi Sở là con ngựa, cạnh đó có núi So là con hổ, các gò đồi xung quanh có
các tên là con Mộc, con Hỏa, con Long… Tất cả đã tạo cảnh quan văn hóa hội xuân
chơi núi, chơi hang. Chùa trải rộng trên quả đồi, hướng Nam, song cổng mở đầu là
hướng Đông - Nam để giáp đường đi tiện cho du khách thăm chùa. Cổng chùa được
xây hai trụ lớn tạo một lối đi ở giữa, hai bên là hai tường nối với hai trụ nhỏ,
như vậy mang tính chất nghi môn là cổng của đền - đình.
Qua cổng là một sân gạch
có hai dãy hành lang ở hai bên làm chỗ bán hàng giải khát và đồ lưu niệm, cũng
để du khách chỉnh đốn y trang và đồ lễ trước khi lên chùa. Cuối sân là con đường
lên chùa, nhiều đổi hướng chữ chi và cũng nâng dần độ cao, ở giữa những rặng
thông cổ thụ như một rừng thông sót lại. Cuối đường gạch, rẽ phải lên nhà bia kỷ
niệm, rẽ trái đến Tam quan kiêm gác chuông.
Tam quan nằm trên trục tâm của khu Tam bảo, song hơi xoay lệch về phía Tây
một chút. Phía dưới Tam quan là nhà Giá Ngự (hay Giá Roi) để ngày lễ rước kiệu
Thánh, cùng nhân dân xem các trò vui tổ chức ở hồ bán nguyệt dưới chân núi gợi
khúc sông cong tụ phúc.
Gác chuông chùa Trăm Gian là một trong số ít gác chuông cổ nhất hiện còn,
có nhiều hình chạm rồng xen lẫn mây lửa thuộc cuối thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ
XVIII. Đây là kiến trúc mặt bằng vuông, hai tầng tám mái với nhiều hoa đao uốn
hắt lên khiến công trình như một bông sen khổng lồ thanh quý. Phần cổ diêm lắp
lan can chấn song con tiện, tạo cho bên trong thoáng mát.
Ở đây treo quả chuông
lớn mang tên Quảng Nghiêm cổ tự đúc năm Cảnh Thịnh 2 (1794) là điển hình của
chuông đồng Tây Sơn. Với tính chất Tam quan, gác chuông có 1 gian chính và 2
gian phụ, cả 4 vì đều có hàng cột, bộ khung bằng gỗ lim truyền lực qua 16 cột
xuống chân tảng đá phân đều trên nền chùa, nhưng tập trung vào 4 cột cái.
Từ Tam quan - Gác chuông đi theo trục tâm qua khoảng sân hẹp khoảng 7 m,
vượt 27 bậc đá lên sân chùa dàn ngang rất hẹp. Giữa sân kê chiếc sập đá có đặt
một bát hương. Lại leo thêm 7 bậc đá nữa lên thềm chùa, hoặc rẽ ra đầu sân bên
trái rồi theo đường dọc hành lang để vào sân trong của chùa với các khu nhà phụ
(nhà khách, phòng tăng...) rồi lên khu Tam bảo từ phía sau nhà Hậu đường.
Khu trung tâm chùa là một tổng thể kiến trúc đông đặc, trong đó các tòa
nhà Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện kết hợp với nhau thành một nội thất
thống nhất theo chữ công, lại có hành lang dài ở hai bên ăn thông với Tiền đường
ở phía trước và Hậu đường ở phía sau, bao lại thành một kiến trúc đóng có hình
chữ quốc.
Ngoài ra, khoảng sân sau Thượng điện trước Hậu đường dựng tòa Phương
đình treo cả trống và khánh, được xem như một nốt son điểm vào giữa chữ “quốc”,
cũng là chỗ cho du khách ngồi nghỉ ngắm các chậu hoa cây cảnh điểm tô ở xung
quanh. Ngoài ra còn vườn tháp mộ sư và 4 miếu Tứ Trấn ở 4 góc đồi.
Từng ấy công trình ở hai khu chính và phụ gắn bó với nhau theo hai không
gian đạo và đời, khác nhau nhưng lại hòa quyện thống nhất dàn khắp đỉnh đồi. Khu
trước hoàn toàn là kiến trúc tôn giáo, phục vụ đời sống tâm linh, được quây kín
theo kiểu nội công - ngoại quốc, nhưng chẳng những hệ thống của bức bàn phía
trước Thượng điện có thể đóng hoặc mở tùy ý, mà các khoảng sân ở trước các dãy
hành lang và trước tòa Phương đình tuy đóng ngang nhưng lại mở dọc, vẫn tiếp với
bầu trời để nhận ánh sáng và mưa gió.
Tính gian theo kiểu truyền thống được phân ra bởi các vì, thì tòa Tiền
đường 7 gian, trong khi đó cùng chiều dài nhưng Hậu đường bố trí thành 9 gian.
Thượng điện chỉ 3 gian nhưng mái trước kéo dài, có tường bên kéo thẳng sang Tiền
đường như kiểu chữ đinh, tuy nhiên phần mái vẫn chừa ra khoảng nhỏ ở hai bên
Thiêu hương để duy trì truyền thống chữ công và cũng là để bổ sung ánh sáng cho
Phật điện trong nội thất.
Theo bia Quảng Nghiêm tự bi ký dựng năm Hoằng Định 4 (1603) thì chùa này
đẹp nhất phủ Quốc Oai, ở đây Bồ tát Khai Sơn đã tu thành đạo quả và sau đó, Bảo
Sơn tiên sinh xây dựng Đà cung. Năm Đinh Sửu (1577) trùng tu các tòa Tiền đường,
Thiêu hương, bộ khung gỗ hiện còn là thuộc lần làm lại ở thời Nguyễn. Những thập
niên gần đây chùa liên tục được sửa chữa, cơ bản theo mẫu còn thấy hồi thế kỷ
XX. Các bộ phận kiến trúc chủ yếu bào trơn đóng bén, soi gờ chạy chỉ, dáng thanh
thoát.
Chùa Trăm Gian ngoài thờ Phật còn thờ đức thánh Bối, ở đây hiện ghi là:
“Đại Thánh Khai Sơn Bình Đẳng Hành nghĩa tín Bồ tát”. Khu thờ Thánh không xây
riêng mà quây ván bưng bên trái Thượng điện, cũng gọi là Cung Thánh thiêng liêng
chỉ nhà sư được vào hành lễ.
Hệ thống tượng ở đây đầy đủ cho một Phật điện thông thường, từ Tam Thế
xuống đến Hộ Pháp. Đặc biệt pho Tuyết Sơn bắt chước bố cục Tuyết Sơn chùa Tây
Phương, song các đường gân và mạch máu lại nổi lên rất rõ. Trong số tượng hậu
Phật, chùa Trăm Gian nổi lên tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông - một quan võ ở thời
Tây Sơn, sau chiến công đánh thắng quân Thanh đầu xuân Kỷ Dậu (1789) đã về quê
đóng góp vào việc tu bổ chùa, được tạc tượng chân dung thờ ở chùa ngay khi còn
sống, tương truyền giống đến mức khi rước vào chùa, người xem không phân biệt
được kiệu người hay kiệu tượng.
Ngoài ra chùa Trăm Gian còn có một số hiện vật thuộc loại hiếm quý. Đó là
rồng đá thời Trần làm lan can thành bậc cửa chùa, có thân dài mập nhưng ghép đầu
rồng thời Nguyễn. Đó là những viên gạch thời Mạc được xây bệ tượng Tam Thế,
nhiều viên chạm chim thần và các con thú rất sinh động. Đó cũng là bộ tranh La
Hán và tranh Thập điện được chạm nổi có kết hợp vẽ…
Đức thánh Bối tên tục Nguyễn Bình An đã tu luyện ở đây thành Thánh với
chức danh Bồ tát bình đẳng hành nghĩa, khi sống có tài đi mấy bước về quê Bối
Khê lấy cà muối và niêu cơm mà cả trăm thợ dựng chùa ăn không hết, khi hóa rồi
còn làm mưa máu đuổi giặc Minh.
Tương truyền năm 95 tuổi, ngày rằm tháng chạp,
nhân dân lễ Phật thành đạo, Ngài vào khám ngồi nhập tịch. Đến mồng 4 tết dân
ngửi thấy mùi thơm mới mở khám xem, từ đấy thành ngày hội chùa hàng năm gắn với
hội chùa thi xôi chuối của cư dân nông nghiệp. Ngày 12 tết, dân Bối Khê sang đòi
rước thi thể Ngài về quê, sau hồi dàn xếp chỉ rước phù hương về thờ. Từ đó dân
hai làng kết tình anh em, giữ mối thân tình đến tận ngày nay./.
(Nghìn năm Thăng Long/Vietnam+)