Dù là sân khấu hay điện ảnh, dù là diễn viên, đạo diễn hoặc giảng viên, tất cả
những gì gắn bó với nghệ sĩ ưu tú Thanh Tú trong 50 năm qua đều gắn với hai chữ
“Hà Nội," như một định mệnh.
1. Mắt đen, răng khểnh, nụ cười tươi - nhiều người công nhận khuôn mặt
Thanh Tú có những nét rất đặc trưng của phụ nữ Hà Nội xưa. Chẳng vậy, hầu hết
những bộ phim chị tham gia đều lấy bối cảnh của một Hà Nội cũ như
"Gánh hàng
hoa," "Em bé Hà Nội," "Chuyện tình tuổi 17," "Sao tháng Tám"… Lúc khăn mỏ
quạ, lúc áo nâu non, lúc trong trang phục của một tiểu thư thành thị, ngần ấy
vai diễn cũng là ngần ấy lần Thanh Tú hóa thân thành những cô gái Hà Nội trong
đủ mọi thăng trầm của lịch sử.
Rồi cả sân khấu nữa. Nhất định bỏ dở trường Đại học Kiến trúc khi đang là
sinh viên năm đầu, cô con gái rượu của ông Thứ trưởng Bộ xây dựng đã chuyển sang
trường Sân khấu Hà Nội (nay là Đại học Sân khấu Điện ảnh), bất chấp sự phản đối
của gia đình. Ra trường năm 1964, cho tới khi nghỉ hưu, cũng chỉ duy nhất Nhà
hát kịch Hà Nội là nơi Thanh Tú chọn để gắn bó với nghiệp diễn.
Đợt dựng
"Sao tháng Tám," nhiều người lo lắm: Tú là con gái phố cổ,
liệu có vào được mẫu “bần nông” như Nhu? Rồi, phim quay ở nhà máy điện Yên Phụ.
Nghỉ trưa, tôi ăn cơm ở chợ Châu Long - Thanh Tú hào hứng kể. Một người đàn ông
bắt chuyện, tưởng tôi làm nghề nhặt than thật nên thương lắm. Cả tuần liền, ông
chờ tới buổi trưa để gặp và trả hộ tiền cơm. Còn tôi thì nghịch ác, không nói
thật.
Đến giờ, đều đặn mỗi năm,
"Sao tháng Tám" được phát sóng lại nhân
ngày Cách mạng. Vai cô Nhu của Thanh Tú đã mang lại cho chị giải Nữ diễn viên
xuất sắc nhất ở Liên hoan phim Việt Nam lần thứ tư (1977). Rồi tiếp theo là một
giải đặc biệt do Ủy ban Phụ nữ Liên bang Xô Viết trao tặng, khi bộ phim này dự
Liên hoan phim Moskva. Cùng với Trà Giang, Lâm Tới, Phương Thanh, cái tên Thanh
Tú được đưa vào Bách khoa từ điển điện ảnh Liên Xô cũng từ cơ duyên ấy.
Cũng khó rạch ròi được rằng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú Thanh Tú có được là
nhờ điện ảnh hay sân khấu. Ba năm sau khi đóng
"Sao tháng Tám," Thanh Tú
lại có một dấu ấn lớn nữa tại Nhà hát kịch Hà Nội với vai Quận công Minpho (
"Âm
mưu và tình yêu") năm 1979. Yêu đương, hận thù, ghen tuông, vật vả… ngần ấy
tâm trạng cùng liên tục thay nhau bộc lộ và hoán đổi trong vai diễn Mipho, với
hàng chục trang độc thoại mà tác giả Schiller đã viết lên.
Tập, nhập vai, cố
phân tích và hiểu tâm lý nhân vật, rồi cũng tới lúc Thanh Tú nuốt trọn vai diễn
ấy. Diễn tới mức xuất thần, nhận những tràng vỗ tay như vỡ rạp của khán giả, rồi
khi ngừng diễn, ăn bát phở bồi dưỡng mà miệng đắng nghét vì mệt. Nói như lời
chị, diễn xong thì cơ thể rời rã không còn là chính mình.
Định nghĩa phong cách riêng của sân khấu kịch Hà Nội là gì thì cũng khó
cắt nghĩa thành lời. Nhìn chung, như một quy ước ngầm, các vở diễn của Nhà hát
Kịch Việt Nam thì sang trọng, chuẩn mực, kịch Tuổi trẻ thì sắc sảo, hóm hỉnh,
trẻ trung, còn kịch Hà Nội thì cố gắng tìm được sự điềm đạm, nền nã và lịch
thiệp. Khi làm vở thì mọi người luôn theo hai hướng ấy - Thanh Tú trả lời khi
nói về kịch Hà Nội.
2. Nói công bằng, diễn viên có điều kiện thuận lợi như Thanh Tú không
nhiều. Với địa vị của cha mẹ, gia đình chị thuộc loại danh giá trong khu phố cổ
Hà Nội khi trước. Năm chín tuổi, Thanh Tú được gửi đi học tại Trung Quốc trong
chương trình “tạo nguồn” dành cho con em cán bộ cấp cao. Bây giờ, trong số bạn
bè cùng đi năm ấy, rất nhiều người thành đạt trên chính trường và vẫn luôn gặp
chị.
Thẳng thắn, hồn nhiên và không ngại nói về những câu chuyện của mình, mấy
năm qua, đã có không ít bài viết tìm đến chị về những câu chuyện khá riêng tư.
Chuyện hạnh phúc gia đình, rồi chuyện sống, chuyện yêu, cả chuyện quy y đạo Phật
từ hơn 20 năm trở lại đây. Quy y, nhưng không cắt tóc hay ở lại tại chùa - mà
như chị nói, tu tại gia hay tại tâm đều được. Nhưng, một phần lớn thời gian
trong cuộc trò chuyện, Thanh Tú nói về nghề đạo diễn sân khấu.
Muốn tìm một hướng mới trong nghề sân khấu, Thanh Tú theo học khoa đạo
diễn sân khấu của trường Đại học Sân khấu điện ảnh đầu những năm 80. Quay về Nhà
hát kịch Hà Nội, chị dựng các vở như
"Đỉnh cao và vực thẳm" (1989),
"Cơ đấm" (1991),
"Thị trường trái tim" (1993),
"Thoát vòng tục
lụy" (1994).
Giữa thập niên 1980, sân khấu chuyển mình và bước sang một môi trường mới.
Nhưng rồi, những éo le trong chuyện công việc, Thanh Tú cũng không có duyên
trong việc tham gia đạo diễn trực tiếp những vở diễn đó. Thành công lớn nhất của
Thanh Tú là vở kịch
"Cầu vồng trắng" của tác giả Thiều Hạnh Nguyên dàn
dựng năm 2000. Câu chuyện đẹp như một bài thơ. Nhưng cũng chỉ tới đó thôi…
“Nhiều lúc, tôi cũng tổ chức những buổi diễn theo kiểu xã hội hóa. Nhưng
rồi, làm mãi như vậy cũng thấy tủi - Thanh Tú kể, có một lần, tôi nhớ mãi, hội
nghị hợp đồng tới diễn. Diễn gần tới giờ, bên công đoàn đưa cho mình một phong
bì: “Các chị cầm chút bồi dưỡng, nghỉ đi”. “- Không, theo hợp đồng thì chúng tôi
biểu diễn cơ mà,” các chị thắc mắc. Và rồi nhận được câu trả lời dứt
khoát: “Không, chị cầm lấy rồi nghỉ đi."
Nhìn ngoài, ít ai nghĩ Thanh Tú đã ngần ấy tuổi. Vẫn khỏe - để hàng ngày
ngược xuôi trên đường phố Hà Nội bằng chiếc xe cub được “độ” lại với màu vàng
rất trẻ trung.Vẫn đủ vui tươi để nhìn lại quãng đời đã qua của mình./.
HTML clipboard
Nghệ sĩ ưu tú Thanh Tú, sinh năm 1944 tại Hà Nội. Các vai diễn tiêu biểu như
"Biển lửa" (1966), vai Thảo; "Tiền tuyến gọi" (1969), vai cô sinh
viên Hương Giang; "Em bé Hà Nội" (1974), vai mẹ bé Hà; "Vùng trời"
(1975), vai chị Hảo; "Sao tháng Tám" (1976), vai Nhu (điện ảnh);
"Tanhia" (1976), vai Tanhia; "Âm mưu và tình yêu" (1979), vai quận
chúa Minfo (sân khấu). |