25/09/2010
|
15:25:00
Đêm trăng chơi Hồ Tây
|
Chiều Hồ Tây. (Nguồn: Internet) |
Phan Kế Bính (1875-1921), hiệu Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, là người làng
Thụy Khuê (làng Bưởi), nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chỉ trong 15 năm, từ khi
thi đỗ cử nhân Hán học năm 1906 và không ra làm quan đến khi qua đời năm 1921,
Phan Kế Bính đã để lại cho hậu thế một di sản văn hóa lớn.
Bài ký "Đêm trăng chơi Hồ Tây" của ông có thể coi là một áng văn
tuyệt bút viết về thắng cảnh lừng danh này của Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn
hiến.
Trời tháng Tám, nhân buổi đêm trăng, dắt một vài anh em bơi một chiếc
thuyền nhỏ rong chơi trong hồ.
Hồ về Thu, nước trong vắt, bốn mặt mênh mông. Trăng tỏa ánh sáng, rọi vào
các gợn sóng lăn tăn, tựa hồ hàng muôn hàng ngàn con rắn vàng bò trên mặt nước.
Thuyền ra khỏi bờ độ vài ba con sào, thì có hây hẩy gió động sóng vỗ rập rình.
Một lát, thuyền đẩy về phía Tây Bắc, vào gần một đám sen, bấy giờ sen tuy
đã tàn, nhưng vẫn còn lơ thơ mấy đóa hoa nở muộn, lá vẫn còn tươi tốt. Mùi hương
đưa theo chiều gió ngào ngạt trong thuyền khiến cho lòng người càng thêm bát
ngát. Trong khi thừa hứng mà lại có thêm mùi hương thì cảnh khoái lạc biết là
dường nào?
Đêm gần khuya, trăng đã xế ngang đầu, anh em cũng đã cạn hứng, muốn về
nghỉ. Tôi tiếc cái thú đêm trăng đó, bảo buông lái cho thuyền tự ý đi vung một
lúc rồi hãy về.
Thuyền theo gió, từ từ mà đi, ra tới giữa khoảng mênh mông, tôi đứng trên
đầu thuyền ngó quanh tả hữu. Đêm thanh cảnh vắng, bốn bề lặng ngắt như tờ. Chỉ
còn nghe mấy tiếng cá lắc tắc ở giữa đám rong, mấy tiếng chim nước kêu oác oác ở
trong bụi niễng, cùng là văng vẳng mấy tiếng chó sủa, tiếng gà gáy ở mấy nơi
chòm xóm quanh hồ mà thôi.
Trông về Đông Nam, kia đền Quan Thánh, đó Chùa Trấn Quốc; trông về Tây
Bắc, đây Đình Võng Thị, nọ Văn chỉ Tây Hồ, cây cối vài đám um tùm, lâu đài mấy
tòa ẩn hiện, mặt nước phẳng lỳ tứ phía, da trời xanh ngắt một màu, xem phong
cảnh đó, có khác gì bức tranh sơn thủy của tạo hóa treo ở trước mắt ta không?
Tôi ngắm đi ngắm lại, lấy làm thích chí, song cũng vì cảnh tĩnh mịch mà lại sinh
ý ngại ngùng, lòng ngao ngán và nỗi buồn tênh.
Hỡi ôi! Cái hồ này tương truyền ngày xưa là một trái núi đá nhỏ, về sau
nước xoáy thành hồ, chuyện đó đã bao lâu, hư hay là thực? Nào thuyền rồng Vua
Lê, nào Hành cung Chúa Trịnh, cảnh thế nào, mà nay chỉ thấy một dòng nước biếc,
mấy đám cỏ xanh? Lại nhớ đến thời thượng cổ, có phải chỗ sương mù nghi ngút kia
là chỗ Trưng Vương đóng quân để chống nhau với Mã Viện đó chăng?
Lại nghĩ đến câu tục truyền, có phải chỗ nước sâu thăm thẳm kia, là chỗ
trâu vàng ẩn tích đó không? Dù có dù không, dù còn dù hết, chẳng lấy gì làm quan
tâm cho lắm, song nghĩ đến các cảnh tượng đó thì không sao mà nguôi được tấm
lòng thổn thức về cuộc tang thương.
Đang khi bồi hồi ngơ ngẩn thì trời ào ào như sắp đổ cơn mưa, vội vàng đẩy
thuyền về nghỉ. Về tới nhà, cởi áo đi ngủ, suốt đêm mơ mơ màng màng như vẫn còn
lênh đênh trên mặt hồ./.
(Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long/Vietnam+)