Trước đây, khu vực thuộc phạm vi Hà Nội ngày nay là đầm lầy, rừng rậm với sự sinh sống của nhiều loài thú dữ, nhưng qua hàng ngàn năm, với sự bồi đắp của những con sông,
đồng bằng xuất hiện.
Rừng rậm-đầm lầy
Theo tài liệu của Ủy ban Nghiên cứu dao động mức nước đại dương thế giới, cách
đây 4.000 năm, nước biển cao trên 3,5m so với mực nước biển hiện nay, nhưng chỉ
1.000 năm sau, mực nước lại xuống thấp dưới mực nước biển hiện nay 3m.
Trong "Tang thương ngẫu lục", Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án đã viết: "Thương
hải biến vi tang điền" - biển xanh biến thành bãi dâu xanh. Nước biển không giữ
nguyên một mực; đất có lúc nâng lên, sụt xuống. Biển lui và sông bồi tích phù
sa, vịnh biển Hà Nội cạn dần: xuất hiện những dải đất và những đầm lầy.
Có đầm lầy nên có cá sấu, thuồng luồng, rùa, giải. Hiện ở hồ Gươm vẫn còn loài
rùa quý. Cá sấu còn sót ở bến sông Hồng hồi thế kỷ XIII, khiến vua Trần sai Hàn
Thuyên soạn "Văn tế cá sấu."
Có đất nên cỏ cây mọc thành rừng rậm với nhiều thú dữ. Chính sử còn chép rành
rành: voi rừng về Tây Hồ thời Lý, hổ rừng về quẩn quanh khu vực chùa Diên Hựu
thời Lê.
Các cuộc khai quật ở Dục Tú, Tiên Hội (Đông Anh), Vĩnh Ninh, Văn Điển (Thanh
Trì) đã tìm thấy nhiều răng voi, nanh hổ, gạc hươu, răng lợn lòi có tuổi
3.000-4.000 năm.
Rừng bàng Yên Thái là một trong "Tây hồ bát cảnh" thời Lê; rừng gỗ tầm giữa bán
đảo hồ Tây; rừng tre ngà viền một dải sông Tô và rừng nứa đền Voi Phục thì sử cũ
cũng còn ghi lại.
Và những tên đất cổ Bồ Đề, Gia Lâm (rừng đa), Du Lâm (rừng dâu da), Mai Lâm
(rừng mơ, rồi cả Mai Động, Bạch Mai, Hoàng Mai, Hồng Mai, Tương Mai), Văn Lâm,
Trường Lâm, Đông Ngàn toàn là rừng xanh tốt.
Chứng tích rõ nhất của thời kỳ rừng rậm-đầm lầy Hà Nội cổ là những dải than bùn
xếp lớp dưới lòng đất.
Than bùn Dịch Vọng (Cầu Giấy) có chỗ dày tới 4m, nằm ở độ cao xấp xỉ mực nước
biển trở xuống. Mỏ than bùn Lỗ Khê (Đông Anh) chạy dài tới vài kilômét. Có rừng
rậm, đầm lầy cộng với động đất và giông tố thì mới có than bùn. Phủ lên trên
càng nhẹ dần tới đất thịt. Di tích của đời sống con người nằm ở lớp đất này.
Thành phố sông hồ
Nét địa lý đặc trưng từ ngàn xưa của Hà Nội là thành phố sông hồ. Đất Hà Nội
là đất bãi do phù sa sông Hồng bồi đắp mà nên. Nhưng sự bồi đắp qua ngàn vạn năm
ấy đã diễn ra không đơn giản: có đời sống du đãng tự nhiên của những con sông ở
đồng bằng - chúng đổi dòng, và có sự can thiệp của con người. Thục Phán đắp lũy
thành Cổ Loa cũng là đắp đê phòng lụt.
Theo cổ sử Trung Hoa thì hồi đầu Công nguyên, ở huyện Phong Khê (nay gồm cả đất
huyện Đông Anh) đã có đê. Đê làm cho quá trình bồi tụ tự nhiên bị ngăn lại từng
phần. Những lần đổi dòng của sông Hồng đã để lại nhiều hồ hình móng ngựa hay
những dải đầm kế tiếp xen kẽ với những dải cát của dòng sông cũ.
Xem các bản đồ Hà Nội từ thời xa xưa cho đến giữa thế kỷ trước, thì thấy lãnh
thổ của nó là một vùng đầm lầy, nửa đất nửa nước. Quy hoạch Hà Nội cổ là tuân
theo và thích ứng đến mức tối đa cái hình thể tự nhiên sông hồ đó. Phần lãnh thổ
chủ yếu của kinh thành xưa là phần đất bồi, được bao bọc bởi sông Hồng ở phía
Bắc và phía Đông, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu ở phía Tây và phía Nam.
Lũy bọc ngoài là thành mà cũng là đê, đường giao thông (La Thành). Sông hồ Hà
Nội vừa là nguồn nước dùng trong sinh hoạt, là hệ thống thủy lợi và giao thông
truyền thống, và cũng là những yếu tố địa lý được dùng làm nguyên lý sơ khởi chỉ
đạo việc quy tụ xóm làng, phố phường và thành lũy phòng vệ.
Sông Hồng, sông Tô
là những trục chủ đạo; hồ Tây, hồ Gươm là những điểm trung tâm, để từ đó tỏa ra
"phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ."./.