10/10/2009
|
08:57:00
Hội đền Bà Tấm-Nguyên phi Ỷ Lan
|
Đền Bà Tấm ở Dương Xá. |
Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc
làng Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh.
Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương Đanh (Tam Dương), xa nữa
là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá. Trước đây
riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã
Dương Xá mới.
Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi Ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi
là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc ngai, trên ngai có bài vị
ghi "Lý triều đệ tam hoàng thái hậu" và một vài bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc
biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang niên đại thời Mạc.
Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19/2 âm lịch, ngày hội lớn là 25/7, tương truyền
là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ
trong đền.
Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ
chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ xã Sủi (Phú Thị) cho tới xã
Văn Lâm (Hải Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền.
Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số
lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội
cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn
nhớ cả tên người được giải cờ người năm đó là ông Trần Nhật Tân.
Trước đây chính hội là từ 19 đến 22/2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục
rịch từ ngày 16 và đến tận 25/2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đã
tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng.
Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
Ngày 19/2 âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội được mở đầu
bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên
tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km.
Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát
bửu, liền sau đó là long đình rước bà Ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch
theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên làng Sủi.
Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong
đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài
ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền.
Do vậy mà đám rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận
Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ... Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui
mô của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới
rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra
đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, các bô lão năm
thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt.
Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào
cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở
giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật
trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết.
Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu.
Trong "Lý triều đệ tam hoàng đế” bản chữ Hán còn chép rõ bản văn tế Hoàng thái
hậu về mùa xuân ở đền. Chúng tôi xin ghi lại ở đây làm cứ liệu tham khảo:
"Rằng: Năm nay là... tháng ... ngày mồng một.
Tỉnh-phủ-huyện-tổng-xã, toàn dân kính dâng lễ vật mong được chiếu cố.
Triều Lý, Hoàng đế thứ ba Ỷ Lan linh ứng, dung mạo thơm tho, đức hạnh đoan
trang, trí hòa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân hậu... giúp nước
đầy phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền hòa đôn hậu, dẹp hết nạn, yêu nước; đoan trang
điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun
trồng nền ơn, ban phúc, phát của... đức lớn lừng danh, hành vi tao nhã, giữ nề
nếp, yên dân giữ nước, lòng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ.
Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân.
Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm, Đoan trang thuần túy công ơn ấy
ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ mọn, tình thâm, kính
cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm
no.
Xin tâu trình"
Chắc chắn văn tế này được làm về sau và tới nay không rõ vào ngày hội nội dung
bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ liệu để thấy được
niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà.
Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các cuộc
dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến
khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu
vực xung quanh.
Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được
chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới
được chia cho các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản
và 60 quả chuối.
Những cụ già đều khẳng định hội xưa không có chi tiết về kiệu và võng lọng của
ông bán dầu trong đám rước ngày hội (người mà theo truyền thuyết đã báo trước
cho Ỷ Lan biết sẽ trở thành hoàng hậu).
Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích) khi nói về
miếu Lý Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau: “Người con gái làng Dương Xá
hái dâu trong nương. Có một ông lão bán dầu trông thấy trên đầu cô có đám mây
tía liền đến bảo cô ta đi gặp vua. Người con gái từ chối nói: "Mẹ tôi sai tôi đi
hái dâu chứ không sai đi xem vua" .
Ông lão nài thêm: "Sau này nếu quả cô được quí hiển thì cho tôi võng lọng đi
trước". Đến lúc đó, cô gái mới chịu nghe theo ông lão đến chỗ vua ngự... Lý Nhân
Tông lên ngôi, tôn cô làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá
lại cho võng lọng của ông bán dầu đi trước.
Về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập tịch mở hội, vẫn rước một cái kiệu
đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước kiệu thần, không dám thay đổi. Ngày
20/2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước.
Song lần này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và những
nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng dâng lễ. Trừ kiệu của bốn thôn thuộc Dương Xá
và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều
phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5 bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật được
chuyển vào trong đền.
Tại sân đền còn có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất là vào những năm trời âm
u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh. Thuận Quang là làng được
quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm. Tổng cờ cũng được lựa chọn cẩn thận, là
người không tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn.
Ngoài ra còn có hai thủ hiệu trống và chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống,
chiêng đều mặc đẹp và phải tập luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ
cũng giống như hiệu cờ, hiệu trống và hiệu chiêng ở hội Gióng. Hiệu cờ cũng quì,
nhảy múa ba lần như ba ván ở hội Gióng.
Lá cờ cũng dài như ở hội Gióng, nhưng tổng cờ phải tập luyện cẩn thận, thuần
thục, tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và
có lỗi với Thánh. Do đó mà các tổng cờ luôn luôn phải chú ý trong khi luyện tập.
Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là nơi
diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ đều
có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng.
Người chơi đánh nước nào thì người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh.
Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại
hấp dẫn người xem không chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự
thanh tú của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch
thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng
và trao giải cho người nhất cuộc .
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền, suốt từ
19/2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm
phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi rã đám mới thanh toán
tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm
sôi nổi.
Trong hội còn có các trò chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo
và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu... Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho
đến hết ngày 2l/ 2 âm lịch. Ngày 22/2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội, cũng
vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải .
Qua khảo sát lễ hội ở Dương Xá và những làng có liên quan, thấy một số điểm sau:
1.Trong các làng thờ Nguyên phi Ỷ Lan thì hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất. Hội
có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn gồm cả tổng Dương Quang xưa
và các làng ăn lộc đền Bà Tấm.
Nếu như ở Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh), Phú Thị
(Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đều cho chỉ thờ Nguyên phi Ỷ Lan, thì tại
Dương Xá, bà Tấm và Nguyên phi chỉ là một và có một quá trình lịch sử dài từ một
hình tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến vị Nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ
có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi, Cám gọi là đớn.
2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao hiếu và cả ba
nơi đều trân trọng yêu quí Mẫu nghi thiên hạ của mình. Cũng dễ nhận ra điều đó
vì Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm, Văn
Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi ấy, do vậy
không lấy làm lạ khi xuất hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều coi Nguyên phi Ỷ Lan là người của quê mình.
3. Ghép các chi tiết hội ở cả ba làng ta sẽ có được một lễ hội trọn vẹn với nội
dung là toàn bộ truyền thuyết về sự thực lịch sử về Nguyên phi Ỷ Lan. Đó là các
tục lệ, nghi thức liên quan đến Bà Tấm.
Chi tiết ông bán dầu ở hội làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm dựa bên
khóm lan khi đi hái dâu và gặp vua để thành hoàng hậu sau này. Tục bông sòng ở
hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm kể lại sự tích đầu thai của vua Lý Nhân Tông và cuối
cùng là những nghi thức và lễ vật của ngày hội nói lên quãng đời cuối cùng của
Nguyên phi chuyên tâm vào việc xây dựng chùa chiền, làm điều thiện,
tu nhân tích đức nơi cửa phật.
4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Khu vực
đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được sự tổ chức khá chu
đáo của chính quyền địa phương và nhân dân trong xã. Nhiều trò vui dân gian được
khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà... Một số sinh hoạt mới được tổ chức...
Trong một khu vực đền hơn hai hécta, các trò chơi được bố trí hợp lý cho nên đã
thu hút người xem rất đông. Dương Xá lại là nơi gần Thủ đô, nằm cạnh đường quốc
lộ số 5, do đó khách trẩy hội cũng rất tiện lợi, vì vậy khách đến hội mỗi năm
một đông thêm./.
(Hanoi Portal/Vietnam+)