14/07/2016
|
19:50:00
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - Giá trị lịch sử và hiện thực
|
Ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của Chính quyền tay sai Pháp - Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội. (Ảnh: TTXVN) |
Nhân kỷ niệm 50 năm thực hiện tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập tự
do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 17/7/1966-17 /7/2016), ngày mai (15/7),
tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng sẽ tổ chức Hội thảo khoa học: Tư tưởng: “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do ” - Khát vọng của dân tộc Việt Nam và chân
lý thời đại.
Nhân dịp này, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư
Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài viết: "Tư tưởng
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Giá trị
lịch sử và hiện thực."
Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết:
Cách đây tròn nửa thế kỷ, ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi chống Mỹ,
cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do.”
Đây là sự khái quát cao bản chất cốt lõi của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
được kết tinh từ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc, phản ánh ý chí, khát vọng, tinh thần quật cường của nhân dân ta
trong cuộc đấu tranh giành, giữ nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc.
Tư tưởng - chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành
động lực to lớn, hạt nhân quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thôi
thúc cả dân tộc vùng lên kháng chiến, vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam:
Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng
thời, cổ vũ nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới tiếp tục đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta biết, quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu, phân tích đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và vấn đề cách mạng ở các nước
thuộc địa. Người khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thành
công triệt để phải tiến hành đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc, tự
do, dân chủ cho nhân dân và quyền bình đẳng với các dân tộc khác.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định
mục tiêu, phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”(1).
Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), Đảng ta và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, dân tộc,… Nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập,
tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”(2).
Với mục tiêu tiên quyết giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng ta đã
thức tỉnh, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước không phân biệt đảng
phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp… tạo nên sức mạnh to lớn đánh
Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám (1945), khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững ngọn cờ
độc lập, tự do, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân nêu
cao ý chí, quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3).
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất quán thực hiện đường lối “vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc”; chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa
dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; chăm lo
xây dựng chế độ mới của dân, do dân và vì dân; thực hiện giảm tô, giảm
tức, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất...
Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, từng bước giải
quyết đúng đắn, hài hòa lợi ích của các bộ phận, Chính phủ kháng chiến
vừa cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, vừa
giữ vững, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc cùng chung sức, đồng lòng
chống thực dân Pháp xâm lược.
Đây là một trong những động lực tạo ra sức mạnh to lớn để nhân dân ta
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu,” chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam.
Nhờ đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã phát huy sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, dân
tộc và thời đại để đánh thắng kẻ thù xâm lược, hoàn thành mục tiêu của
cách mạng.
Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng
thời sử dụng không quân và hải quân tăng cường đánh phá miền Bắc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố đanh thép: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,
10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố,
xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(4).
Lời hiệu triệu của Người thể hiện ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc
Việt Nam, động viên mạnh mẽ lòng yêu nước, dũng khí cách mạng, thúc giục
quân và dân cả nước vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào,” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc
tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù, công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô
và Đông Âu rơi vào khủng hoảng, sụp đổ, nhưng với đường lối độc lập, tự
chủ, sáng tạo, công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo không những
vẫn đứng vững mà còn tiếp tục giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa
lịch sử.
Thành tựu nổi bật và cơ bản là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù,
ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu đồ chống phá cách mạng nước ta của các thế
lực thù địch, phản động; tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tuy hòa bình, hợp
tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tiếp tục diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, tác động trực tiếp đến nước ta,
tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền
lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố… tiếp
tục diễn biến phức tạp.
Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, năng lượng, lương thực, an
ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục gia
tăng.
châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á dù đã hình thành
cộng đồng và tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa
kinh tế-chính trị ngày càng quan trọng, nhưng cũng là nơi cạnh tranh
chiến lược quyết liệt giữa một số nước lớn; tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp cũng như uy tín quốc tế của
đất nước không ngừng được nâng cao; việc thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế, tham gia các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới và hội nhập
quốc tế đạt tầm, mức sâu rộng hơn...
Tuy vậy, chúng ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ
mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, thậm chí có mặt trầm trọng hơn. Kinh
tế thoát khỏi tình trạng suy giảm, dần phục hồi đà tăng trưởng, nhưng
chưa vững chắc, sức cạnh tranh còn thấp. Các thế lực thù địch tăng cường
các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa…
Cùng với đó, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là mầm mống “tự diễn
biến,” “tự chuyển hóa” không thể xem thường. Tình hình đó đặt ra những
yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với tư tưởng chỉ đạo
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
Quán triệt và thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát do Đại hội XII của
Đảng đề ra: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy
tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5).
Để phát huy hơn nữa giá trị tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do,” cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản, trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục quán triệt cho các cấp, ngành, địa phương, lực lượng và
toàn dân nắm vững, thấu suốt tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do” trong điều kiện mới.
Đây là vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để định hướng tư tưởng và hành
động, đồng thời xác định nội dung, phương thức, lộ trình cùng những bước
đi phù hợp trong triển khai thực hiện.
Theo đó, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” phải được nhận
thức sâu sắc, toàn diện và được vận dụng trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Trong đó, vấn đề tiên quyết, cơ bản nhất là giữ vững độc lập, tự chủ về
chính trị mà mấu chốt là độc lập, tự chủ về đường lối của Đảng, bảo đảm
đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước được hoạch định và kết tinh bởi tâm huyết, trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân, phục vụ cho mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.”
Đường lối đó phải trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, được vận dụng một cách khoa học, sáng tạo vào thực
tiễn Việt Nam và trở thành định hướng phát triển, nền tảng tư tưởng của
toàn xã hội.
Đặc biệt, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, độc lập, tự chủ phải bảo đảm thực hiện tốt phương
châm: “đổi mới nhưng không đổi hướng,” “hội nhập nhưng không hòa tan”
trong thế giới đa cực với nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp.
Muốn vậy, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tăng cường đoàn
kết, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình,
trước hết là nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, kết luận tình hình
thế giới, khu vực và trong nước, khả năng hoạch định đường lối đúng đắn,
sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực tiễn của đất nước.
Coi trọng phát huy năng lực nội sinh, tinh thần tự lực, tự cường của dân
tộc và khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân trong giải quyết các
vấn đề trọng đại của đất nước. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản bác
sự xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính
trị.
Cùng với việc giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị; cần quán triệt và
thực hiện tốt những nội dung về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh,… và đối
ngoại, nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, nhất quán giữa đường lối
chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể của tất cả các mặt, lĩnh
vực, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Thực hiện tốt nguyên tắc chiến lược trên có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc phát huy giá trị hiện thực của tư tưởng “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ cũng là nguyên tắc chiến lược trên, đòi hỏi
chúng ta cần nhận thức, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm bảo vệ
Tổ quốc của Đảng được thể hiện tập trung trong các văn kiện, nhất là
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về
“Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.”
Trên cơ sở đó, tập trung xây dựng nền quốc phòng độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường và ngày càng hiện đại, tăng cường tiềm lực quốc phòng và
an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ
vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm; trong đó, coi
trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Trong bối cảnh hội nhập vừa hợp tác, vừa đấu tranh, việc nhận thức về
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong lĩnh vực này cần hết sức linh
hoạt, biện chứng, khắc phục sự xơ cứng trong tư duy; đồng thời, phát huy
được năng lực nội sinh và tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài
thông qua hợp tác quốc tế, phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là Quân đội nhân dân cần phát huy
hơn nữa vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể
Trung ương và địa phương kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới
và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc trong mọi tình huống; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước; tăng
cường đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, thúc đẩy “tự
diễn biến,” “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch; phản bác những
thông tin và luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an
ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt
cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công
tác giáo dục, bồi dưỡng chính trị-tư tưởng, kiến thức quốc phòng và an
ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân. Coi trọng xây dựng các phương án
động viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng-an ninh cũng như
kế hoạch động viên quốc phòng ở mỗi địa phương, từng khu vực, địa bàn và
trên phạm vi cả nước.
Trước mắt, cần tích cực chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế
hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong mọi tình huống, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ.
Ba là, coi trọng phát huy dân chủ, thường xuyên chăm lo đời sống, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề độc lập, thống nhất đất
nước gắn liền với tự do cho dân tộc và ấm no hạnh phúc cho nhân dân,
trước hết là cho nhân dân lao động.
Người đã từng khẳng định: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(6), “Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi dân được ăn no, mặc đủ” (7).
Vì thế, phát huy dân chủ và thường xuyên chăm lo đời sống, lợi ích chính
đáng của nhân dân là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhằm
hiện thực hóa ngày càng tốt hơn tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do” trong hoàn cảnh mới.
Để làm tốt vấn đề này, các cơ quan, đơn vị toàn quân căn cứ vào tình
hình cụ thể của địa bàn đóng quân để tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền địa phương có biện pháp phù hợp nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của nhân dân, tạo mọi thuận lợi cho nhân dân tham gia rộng rãi và
thường xuyên vào công tác quản lý nhà nước, kinh tế, xã hội và tham gia
giải quyết các vấn đề nảy sinh ở địa phương, cơ sở.
Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân công tác, đội quân sản
xuất, chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương kết hợp
chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc
phòng-an ninh, gắn với bảo đảm an sinh xã hội trên các vùng, miền, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục giúp nhân dân triển
khai các mô hình kinh tế, xây dựng nông thôn mới; huy động mọi nguồn
lực của địa phương, xã hội, đơn vị cùng Nhà nước chăm lo ngày một tốt
hơn đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách, gia đình
và người có công với cách mạng; tham gia xóa đói, giảm nghèo trên các
vùng, miền và phối hợp với các địa phương tập trung chăm lo bảo đảm việc
làm, cải thiện điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân một cách tốt nhất theo khả năng thực tế của đất nước.
Kỷ niệm 50 năm thực hiện tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng nhận rõ hơn tầm vóc, ý nghĩa và
giá trị to lớn, xuyên suốt của nó trong tiến trình cách mạng Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn, lịch sử và
hiện thực sâu sắc, tiếp tục soi đường để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta vận dụng thực hiện trong tình hình mới./.
(TTXVN/Vietnam+)