Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Hiện, dấu
ấn của nó còn hiển hiện trong hàng chục ngôi chùa cổ tại đây đặc biệt với nhiều
chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn
núi đá mà thành các động chùa độc đáo.
Các động chùa tiêu biểu ở ở kinh kỳ cổ này bao gồm: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích
Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh Cốc…
Chùa Hoa Sơn
Hoa Sơn động nằm ở Áng Ngũ, xã Ninh Hòa, ở độ cao gần 70m. Tương truyền động
Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Tên trước của động là chùa Bà Đẻ, sau
vua Tự Đức đến thăm đã đặt lại tên động là Hoa Sơn.
Trước cửa động, ở bên phải có hai pho tượng bằng đá được đánh bóng nhẵn thờ
hai ông bà có công tu sửa chùa, tên là Nguyễn Hữu Non và Lê Thị Sánh. Văn bia
khắc ở vách núi phía bên trái cho biết ông bà sửa chùa năm 1815.
Vào thời Nguyễn, vua Tự Ðức trong chuyến tuần du ra Bắc Hà, nghe đồn ở đây có
"chùa" đẹp đã ghé thăm. Nhà vua vào động lễ Phật, thấy động kỳ ảo nên đã đổi tên
động thành "Hoa Sơn Ðộng." Từ đấy động được gọi là "Ðộng Hoa Sơn" hay "Chùa Hoa
Sơn." Nhà vua còn lệnh cho quan sở tại tập hợp lại các ngôi mộ thuộc Hoàng tộc
nhà Ðinh và những người có công với triều Ðinh, cho xây lăng Nghĩa Chủng ở khu
đất rộng chừng 3 mẫu.
Hiện nay, lăng Nghĩa Chủng xây bằng đá vẫn còn, nằm ở phía
đông nam, cách động Hoa Sơn chừng 150m. Nhà vua cũng truyền cho quan sở tại cấp
2 mẫu ruộng ở phía đông bắc động, giao cho nhân dân địa phương trồng cấy hằng
năm, lấy lương thực để cúng tế trong chùa, gọi là ruộng Phù Tự.
Cửa động Hoa Sơn có mây vờn, sương phủ linh thiêng, nước rơi tí tách quanh năm
từ các nhũ đá. Cửa tiền của động, chiều ngang 12m, chiều cao khoảng 20m, có cây
Ða Bà rễ thả trước cửa động. Bên trái cửa tiền có chiếc khánh đá to, gõ vào nghe
trầm bổng âm u như tiếng chiêng. Chiều dài của động bằng chiều ngang của núi,
khoảng 100m, xuyên qua núi, có ba hang liền nhau, tam cấp, từ thấp lên cao là
hang Hạ, hang Trung và hang Thượng.
Chùa Linh Cốc
Chùa Linh Cốc thuộc thôn Gôi Khê, xã Ninh hải, cách chùa Bích Động khoảng
500m về phía Đông Nam, nằm trong núi chùa Móc (nay gọi là chùa Linh Cốc). Chùa
quay hướng Tây, phía trước là một cánh đồng nước, nơi đây đúng là cảnh cao sơn
lưu thủy khoáng đạt linh thiêng...
Chùa có từ năm Mậu Ngọ, triều vua Trần Thánh Tông, niên hiệu Thiệu Long thứ
nhất, tức là năm 1258. Đến triều Lê Anh Tông, niên hiệu chính trị năm thứ 9, tức
là năm 1556 chùa được tôn tạo. Năm 1996, nhân dân thôn Gôi Khê tu sửa lại.
Sân chùa rộng ở ngay chân núi, hai bên sân có nhà thờ tổ. Ba gian quay hướng tây
bắc, đặt tượng thờ thánh tăng là đức A Nam Đà và đức tổ tây, mũi cao, tóc quăn,
râu quai nón là người Ấn Độ. Nhà trai 5 gian, quay hướng đông nam. Điện Mẫu quay
lưng vào sườn núi, hướng tây nam, xây dựng theo kiểu chữ “ Tam” (Hán tự).
Hậu cung là một gian thờ Tam Toà Thánh Mẫu gồm: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu
Liễu Hạnh. Thiêu hương gồm 3 gian thờ Công Đồng Thánh Mẫu, Tiền Đường 5 gian,
gian cuối bên tay trái có treo quả chuông.
Lên chùa Linh Cốc du khách phải qua hồi hướng nam của Điện Mẫu, leo lên 83 bậc
đá ở sườn núi mới tới. Chùa ở lưng chừng núi, cao hơn so với sân gạch khoảng
30m. Con người đã lấy động núi làm chùa. Buồng ngoài cao đến 20m, nền bằng phẳng
và rộng, dùng làm Tìên đường của chùa, đặt hai tượng Hộ Pháp, vách đá bên tay
phải có treo một quả chuông. Buồng trong thấp là một động nhỏ ăn sâu vào núi ôm
lấy thượng điện của chùa.
Chùa Thiên Tôn
Chùa - động Thiên Tôn là di tích lịch sử văn hóa thuộc khu di tích cố đô Hoa
Lư. Chùa nằm ở thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Nếu như núi chùa
Bái Đính thờ thần Cao Sơn là vị thần núi trấn ngự ở cửa ngõ phía tây vào thành
trong, hang động Tràng An thờ thần Quý Minh là vị thổ thần trấn ngự ở cửa ngõ
phía Nam vào thành nam thì động chùa Thiên Tôn là di tích thờ thần Thiên Tôn, là
vị thiên thần trấn ngự ở cửa ngõ phía đông vào thành ngoài của khu di tích cố đô
Hoa Lư.
Động thờ thần Thiên Tôn, vị thần trong truyền thuyết ở kinh đô Hoa Lư thế kỷ 10
tương truyền, trước khi đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã mang lễ
vật vào tế lễ trong động để mong được thần giúp đỡ đánh tan các sứ quân khác.
Sau khi lên ngôi vua, Đinh Tiên Hoàng Đế đóng đô ở Hoa Lư, ông đã cho xây cất
nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi
vào kinh đô.
Chùa Bích Động
Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường
Yên thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là một di tích lịch sử
văn hóa thuộc khu du lịch quốc gia là Tam Cốc - Bích Động. Chùa nguyên có tên
"Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng"- ngôi chùa bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn
thâm sơn cùng cốc. Đây là một kiểu động làm chùa phổ biến ở Ninh Bình, động Bích
Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị
động," có nghĩa là động đẹp thứ nhì của trời Nam sau động Hương Tích.
Năm Giáp Ngọ 1774, chúa Trịnh Sâm đã đến thăm chùa, nhìn toàn cảnh núi, động,
sông nước, đồng ruộng, cây cối đều xanh tươi, chùa như hội tụ nền xanh chùa nên
đã đặt tên cho chùa là Bạch ngọc thanh sơn động.
Chùa Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" Hán tự, ba tòa không liền nhau,
tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa
riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng.
Điều độc đáo của chùa Bích Động là núi, động và chùa bổ sung cho nhau, lại ẩn
hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc, làm cho chùa hòa nhập với cảnh trí thiên
nhiên ngoại mục. Toàn cảnh như một bức tranh núi rừng hùng tráng, dát lên một
phù điêu gồm 3 ngôi chùa cổ kính, mái ngói rêu phong, có đủ 8 cảnh đẹp mà người
xưa đã gọi là Bích sơn bát cảnh, ba chùa lại được xây trên sườn núi cao, dưới
gầm lại có động Xuyên Thủy.
Chùa Bái Đính
Chùa là một quần thể chùa gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây
dựng năm 2003. Đây là một siêu chùa nằm trên núi Bái Đính, thuộc huyện Gia Viễn.
Chùa nhận bằng “Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa” năm 1997. Chùa nằm cách khu di tích
Cố đô Hoa Lư 5km về phía tây. Đây là ngôi chùa gắn với nhiều danh nhân Việt Nam
như Lý Quốc Sư, Đinh Bộ Lĩnh và Quang Trung.
Chùa Bái Đính cổ nằm cách Điện tam thế của khu chùa mới khoảng 800m. Lên thăm
hang động ở núi Bái Đính, bước trên 300 bậc đá, hết dốc là tới ngã ba: bên phải
là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ
đại tự khắc trên đá có nghĩa là “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp.” Động dài 25m, rộng
15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng.
Tương truyền rằng nơi đây, Ông Nguyễn Minh Không đi tìm cây thuốc đã phát hiện
ra hang động này đã dựng chùa thờ phật. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động
sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Trở lại ngã
ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới Động Tiên (Hang Tối).
Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 “buồng” tức là 7 hang, có hang trên
cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền
bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang
được tạo hoá ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng... Bà
Chúa Thượng Ngàn được đặt thờ giữa hang chính với các tượng bằng đá được sơn son
thiếp vàng.
Chùa Địch Lộng
Chùa nằm trên núi Kẽm Trống, thuộc xã Gia Thanh, Gia Viễn. Chùa ở lưng chừng
núi Địch Lộng, có độ cao so với chân núi khoảng 80m.
Trước cửa chùa có các khối đá giống hình voi chầu, hổ phục, sư tử chầu như đang
canh giữ bảo vệ cửa Phật. Ở đây còn có rất nhiều nhũ đá đẹp lấp lánh như cái dù
che, rủ xuống như chuông treo. Trong chùa có bầy nhiều tượng Phật, các pho tượng
phật uy nghiêm, nhân từ do con người tạo dựng hòa nhập với các nhũ đá của thiên
nhiên. Tất cả hiện lên linh nghiêm trong ánh đuốc bập bùng và những loé đỏ của
hương trầm phảng phất mùi thơm cõi thiền.
Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn,
nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hóa, có nhiều nhũ đá
từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Mỗi không gian
của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt
vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo. Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì
ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn
vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên
là Địch Lộng (Địch nghĩa là sáo, Lộng nghĩa là gió).
Điều độc đáo ở hang Tối và Hang Sáng là các thạch nhũ, lấy đá gõ vào thì lanh
lảnh như tiếng chuông. Đó là những thạch cầm của thiên nhiên. Đặc biệt hơn nữa
là những rải nhũ đá trong hang lấp lánh bảy sắc cầu vồng và mầu sắc thay đổi
theo ánh sáng mặt trời. Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian
từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng Ba./.