27/06/2010 | 15:06:00

Làng nghề giấy Kẻ Bưởi Yên Thái

Đãi, lọc bột dó. (Ảnh: tư liệu)

Vùng Bưởi có nhiều làng nghề, trong đó có hai nghề nổi tiếng là dệt lĩnh (làng Bái Ân, Tích Sài) và làm giấy dó (Hồ Khẩu, Yên Thái).

Làng nghề giấy dó Yên Thái, cũng được gọi là Kẻ Bưởi, ở phía tây bắc của Thủ đô Hà Nội. Không biết nghề làm giấy dó ở vùng này xuất hiện từ bao lâu rồi, nhưng nó đã trở nên nổi tiếng và đi vào ca dao thành một điểm đặc trưng cho các làng nghề ở đất Thăng Long-Hà Nội.

Ngay đến ông tổ nghề giấy cũng không rõ họ tên là gì, mặc dù vẫn được thờ phụng trong các làng làm giấy xưa. Từ trước thế kỷ 13, nghề làm giấy đã có tại thôn Dịch Vọng. Sau đó, nghề này lan truyền dần qua các địa phương ven sông Tô Lịch như Yên Hòa (tục gọi là làng giấy), Hồ Khẩu, Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô, trong đó tập trung và phát triển nhất là thôn Yên Thái. Truyền thuyết ghi lại, đầu tiên ông tổ nghề giấy truyền nghề cho dân làng Yên Hòa, rồi lần lượt qua các làng khác.

Thực ra, có lẽ từ trước đó rất lâu, người Việt đã biết làm giấy. Năm 284, một thương nhân La Mã đã mua của Giao Chỉ hàng vạn tờ giấy mật hương, một loại giấy thơm, để dâng lên vua Tấn Võ Đế. Một học giả người Hoa là Kê Hàm cũng đã xác nhận giấy Mật Hương của Giao Chỉ làm bằng gỗ trầm thơm, màu trắng, có vân vảy cá, thả vào nước không nát. Vậy ít nhất thì nghề làm giấy đã có ở Việt Nam từ thế kỷ ba sau công nguyên.

Cho đến khi nhà nước Đại Việt ra đời và định đô ở Thăng Long thì nghề này ở làng Yên Thái đã phát triển mạnh. Giấy dó Yên Thái đã từng là mặt hàng triều cống cho triều đình nhà Tống của đời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Trong sách "Dư địa chí" (1435), Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến phường Yên Thái ở Thăng Long gồm các làng Hồ Khẩu, Đông Xã, An Thọ, Yên Thái, Nghĩa Đô làm ra nhiều loại giấy: giấy sắc (để viết sắc của vua ban), giấy lệnh (để viết các lệnh chỉ của vua), giấy bản (phục vụ dân dụng), giấy quỳ ...

Nghề làm giấy cổ truyền ở Yên Thái xưa cũng đã khá phức tạp, nó đòi hỏi từng loại thợ ở từng công việc cụ thể phải có kinh nghiệm và giỏi nghề. Sự chuyên môn hóa ấy còn chịu sự chi phối bởi mục đích sản xuất, sản lượng và chất lượng giấy theo yêu cầu. Có lẽ vì thế mà các làng kẻ Bưởi đã trở thành một phường nghề phát triển cho đến tận thế kỷ 19, khi mà các loại chế bản với phương thức in mới không còn phù hợp với loại giấy cũ. Từ những công đoạn đầu tiên là bóc, giã vỏ cây dó, cho đến các công đoạn phức tạp hơn như nấu, lọc, seo giấy đều cần những người thợ lành nghề.

Thời xưa, có lẽ làng nghề này đã cũng cấp phần lớn lượng giấy cho nhu cầu cả nước, nên tiếng chày giã dó một thời đã thành một trong những nét đặc trưng của kinh kỳ. Âm thanh tiếng chày khua trong đêm đã đi vào ca dao:

"Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toà ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ"

Trong bài "Phú thượng Tây Hồ" Nguyễn Huy Lượng thời Tây Sơn cũng nói về nghề làm giấy rất thơ:

"Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co"

Hẳn là, từ mạn Bưởi, Yên Thái, tiếng chày giã "dó" thành bột để làm giấy đã vang động cả một vùng hồ nước mênh mông, nên mới được Nguyễn Huy Lượng tán dụng đến như vậy.

Người làng cũng kể lại rằng: "Trước kia, vào các buổi sáng sớm, cả tổng Bưởi vang nhịp thình thịch của tiếng chày giã giấy xen lẫn tiếng gọi nhau í ới trong các lò giấy. Những ngày phiên chợ mồng bốn, mồng chín hàng tháng, cả làng ra bán giấy tại chợ Cầu, kẻ bán người mua chen chúc, tấp nập. Cả làng trắng xóa giấy phơi."

Cái nghề làm ra thứ để ghi chép tinh hoa văn hiến, vậy mà vất vả lắm. Có thể nói, ở tất cả các công đoạn sản xuất từ bóc vỏ dó, ngâm và giặt dó, giã dó, nấu dó, lọc dó, xeo giấy, đến đóng gói kiện giấy và vận chuyển đi bán đều hết sức vất vả và hầu như hoàn toàn bằng sức người với đôi tay trần của người thợ.

Sản xuất giấy cần rất nhiều nước, mà phải là nước sạch để ngâm, đãi, nấu dó. Bột dó phải nấu qua lửa mới thành giấy. Trước kia, lò nấu dó đắp bên sông Tô, miệng lò đặt chiếc vạc, vỏ dó được đun cách thủy trong vạc. Khi vỏ dó chín, người ta vớt ra và đem ngâm vôi. Sau đó bóc hết lần vỏ đen bỏ đi, phần vỏ dó còn lại có màu trắng muốt, được đem giã nhuyễn bằng cối lớn, chày tay. Thanh niên giã dó cả ngày lẫn đêm; giã trong nhiều ngày đêm mới đủ bột dó để sản xuất.

Giấy Yên Thái dùng lò sấy là chủ yếu, ít khi phải đem phơi. Do đó dù trời mưa vẫn không ảnh hưởng đáng kể đến công việc, giấy vẫn được sấy khô như thường. Lò sấy giấy đã xuất hiện ở Yên Thái từ mấy trăm năm trước đây. Người làng nghề truyền lại rằng, khi xưa con gái Bưởi khi xưa ra ngoài đường không dám mặc áo cộc tay, bởi vì khi sàng giấy, các cô phải tì hai tay vào thành bể để sàng, nên bị xây xát thành chai, thành sẹo. Con trai ra ngoài đường, người ta biết ngay là trai Bưởi, vì anh nào đi cũng hơi vẹo một bên vì gánh nguyên vật liệu làm giấy ở dưới thuyền lên chỉ bằng một bên vai. Cái vất vả này cũng đã đi vào ca dao:

"Giã nay rồi lại giã mai 
Đôi chân tê mỏi, dó ơi vì mày...
Xeo đêm rồi lại xeo ngày 
Đôi tay tê buốt vì mày giấy ơi"!

Vất vả vậy mà, không ít người đến nay khi nói về một thời tiếng chày Yên Thái vang vọng đêm Hà Thành, vẫn không khỏi ngậm ngùi. Họ vẫn tiếc vì đã mất đi một vùng nghề truyền thống. Cái vất vả ấy vẫn được người ta tự hào, vì rằng"

"Bóng đèn là bóng đèn hoa
Ai về vùng Bưởi với ta thì về
Vùng Bưởi có lịch có lề
Có sông tắm mát cò nghề seo can"

Từ cây cỏ, trong môi trường nước và lửa, từng tờ giấy lụa mỏng manh đã ra đời để rồi lưu lại biết bao dấu tích, nét bút tài hoa của những Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm... và hình ảnh cô gái làm giấy vất vả cũng đã trở thành một hình tượng văn học hết sức đẹp đẽ duyên dáng:

"Người ta bán vạn buôn ngàn
Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi
Dám xin ai đó chớ cười
Vì em làm giấy cho người viết thơ"

Sản phẩm truyền thống của Yên Thái chủ yếu là giấy bản để in sách và viết chữ nho (bằng bút lông, mực tàu) và giấy dó (dày hơn giấy bản) để in tranh dân gian. Trước kia phố Hàng Giấy chuyên bán đủ các thứ giấy của vùng Bưởi sản xuất và cũng đã từng làm hài lòng biết bao văn nhân, tài tử từ khắp các xứ Đông, Nam, Đoài, Bắc qua xứ Nghệ vào tận lục tỉnh phía Nam. Ngoài ra, thợ giấy Yên Thái cũng sản xuất loại giấy moi, giấy phèn bằng nguyên liệu xấu hơn, mặt giấy thô ráp dùng để gói hàng.

Ngày nay do công nghệ sản xuất giấy hiện đại đã khiến nghề làm giấy dó cổ truyền của Yên Thái không còn nữa, nhưng làng Yên Thái (làng Bưởi) vẫn còn đó như một chứng tích về một vùng quê với nghề giấy dó từng nổi tiếng khi xưa./.

(Nghìn năm Thăng Long/Vietnam+)

Bản để in Lưu vào bookmark