01/11/2012
|
09:48:00
Lệ làng Hà Nội
Nói đến Hà Nội là người ta nhớ ngay đến câu:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
Nét thanh lịch ấy được hình thành trải qua bao đời, nó ăn sâu vào máu thịt của
mỗi người Hà Nội và cả những người từng sống và gắn bó với Hà Nội. Nét thanh
lịch ấy thể hiện trong lời ăn tiếng nói, cách ứng xử với xóm giềng, với gia
đình, bè bạn, với tất cả những gì diễn ra trong sinh hoạt đời thường, để rồi tạo
nên một nếp sống đẹp, độc đáo, chỉ Hà Nội mới có. Và nếp sống đó được phản ánh
khá rõ nét trong những điều ước, tục lệ, hương ước.v.v…mà có thể gọi theo một
cái tên chung là “Lệ làng” Hà Nội.
Theo lẽ thường chỉ những làng xóm, thôn ấp ở nông thôn thì mới có “Lệ làng”.
Nhưng Thăng Long – Hà Nội tuy là kinh đô, là đô thị lớn nhất của cả nước, song
vẫn là “Kẻ chợ” của một “Kẻ quê”. Ở đó có những thôn làng phường phố đan xen và
cùng nhau tồn tại qua trường kỳ lịch sử. Trong xã hội Việt Nam xưa các tổ chức
này thường đặt ra những điều ước (lệ làng) để ràng buộc gắn kết kết với nhau
đồng thời để điều hòa và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến từng cá nhân từng
cộng đồng/ Hà Nội không nằm ngoài cái chung đó. Điều đáng lưu ý là “lệ làng” do
dân xây dựng nên, ngay tại địa phương, nó phù hợp và thích nghi với tình hình cụ
thể của từng địa phương. Cho đến đầu thế kỷ XX do yêu cầu của Chính phủ Bảo hộ
Pháp, các thôn làng phường phố của Hà Nội cũng như cả nước đã phải tự kê khai
“lệ làng” của địa phương mình theo khuôn mẫu quy định. Hiện nay theo số liệu
điều tra Hà Nọi cũ còn lưu giữ được gần 200 bản “lệ làng” bằng chữ Hán và chữ
Nôm, bản có niên đại xưa nhất là “Tục lệ làng Tương Mai” lập ngày 30 tháng 3
niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 4 (1732).
Dân gian có câu “Phép vua thua lệ làng”, điều đó nói lên sức gắn kết của “lệ
làng” đối với từng cộng đồng nhỏ, thậm chí nó có thể bỏ qua cả những luật lệ của
triều đình phong kiến. Việ tìm hiểu, nghiên cứu về “lệ làng” Hà Nội giúp ta có
thể hình dung được mọi mặt sinh hoạt xã hội – hay nói cách khác là thói người
nết đất tất đa dạng của người Hà Nội xưa, rồi từ đó sẽ dễ dàng nhận thấy những
mặt tích cực cần phát huy, những điểm hạn chế cần loại bỏ.
Điểm tích cực của “lệ làng” Hà Nội là những quy định rất rõ ràng chặt chẽ. Ai vi
phạm “lệ làng” là vi phạm cả cộng đồng, sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ.
Đó chính là cơ sở để giữ yên lệ làng phép họ, giữ yên kỷ cương phép nước. Mà duy
trì được kỷ cương phép nước chính là để xây dựng một xã hội có luật pháp, thì có
lẽ một chính thể nào một xã hội nào cũng cần đạt tới.
Nhiều bản “lệ làng” Hà Nội đã hàm chứa nội dung rất tiến bộ nhằm giữ gìn và phát
huy thuần phong mỹ tục của địa phương mình. Ngay trang đầu “lệ làng” phường Xã
Đàn đã viết “…Dạy lòng kính để tôn trọng thánh thần, dạy lòng thuận để cho phong
tục thuần hậu, dạy lòng hiếu để biết coi trọng nhân luân, dạy lòng dễ để biết
phân biệt lớn nhỏ, khiến cho luân lý có trước có sau. Thận trọng suốt đời mà
luôn ghi nhớ công lao người đi trước, tất cả những điều này chẳng gì không lấy
dân làm gốc…Dù là công hầu khanh tướng, sĩ, nông, công thương, cũng đều từ làng
quê mà ra cả. Nếu không nắm vững pháp luật, không lấy lễ nghĩa để răn giới, thì
trâu bò lại lẫn với ngựa ký, mắt cá tưởng lầm ngọc châu, làm sao phân biệt được
lơn nhỏ, lấy gì để định lập tôn ty…Cho nên tiếp thu điều phải mà vứt bỏ cái sai,
trên dưới hợp hòa thì muôn việc đều thành”.
Có thể nói muôn mặt sinh hoạt đời thường của người Hà Nội đều được quy định ở
từng điều mục cụ thể trong lệ làng, thí dụ: “Trong làng, các việc gian tham trộm
cắp đồ vật của người khác, hay dâm bôn loạn luân, bất hiếu bất mục, đang có tang
mà tụ tạp đàn hát xướng nhộn nhịp…thì quan viên Hương lão xã Thôn trưởng cùng
nhau họp để xử phạt” (Tục lệ làng Tương Mai).
Mọi người sống hòa thuận gắn kết chặt chẽ với nhau trong tình làng nghĩa xóm.
Mỗi người đều phải có trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi với cộng đồng: “Gặp lúc
khẩn cấp như nước to đê vỡ, hoặc hỏa hoạn trộm cướp, trừ những người 60 tuổi trở
lên hoặc bệnh tật, yếu đuối, còn nghe hiệu lệnh lập tức phải đến cứu. Nếu ai
biếng nhác không đến, hội đồng xét thực phạt từ 2 đến 5 hào. Trong khi làm việc
chung ai bị thương thì làng cấp tiền chữa thuốc, bị trọng thương thành tật làng
cho một xuất kỷ mục, bị thương đến nỗi chết thì làng cấp cho 20 đồng tiền tuất
và cả làng đều phải đi đưa ma”. (Lệ làng Nam Đồng, nay thuộc quận Đống Đa, Hà
Nội).
Nhìn chung trong các thôn làng phường phố, mọi người đều đối xử với nhau rất có
văn hóa trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, lệ thôn Thổ Quan ghi rõ: “Bản thôn
rất tôn trọng việc trên thuận dưới hòa. Nếu người trên lăng mạ kẻ dưới hoặc kẻ
dưới không tôn trọng người trên, kiểm tra thây đúng sự thật thì kẻ dưới bị đánh
20 roi để răn đe, còn người trên thì phạt 1 quan tiền và 50 miếng trầu để giữ
nghiêm lệ làng”. Đối với người già cả thì bất kể ở đâu cũng được kính trọng. “Cứ
10 năm 1 lần vào rằm tháng giêng biếu cho những cụ từ 70 tuổi trở lên mỗi người
một chiếc mũ lụa màu vàng”. Còn đối với học trò “người nào đến tuổi
đi học thì được miễn các việc như tuần phu, điếm phu để tập trung vào
việc học hành. Ai gia cảnh nghèo khó nhưng hiếu học làng sẽ trích
tiền công để chu cấp” (Lệ thôn Kim Mã).
Sở dĩ “lệ làng” có sức mạnh hơn cả “phép vua” bởi lẽ nó gắn chặt
với cộng đồng mà tối lửa tắt đèn có nhau. Mọi người đều có chung
quyền lợi và nghĩa vụ. Ai cũng tự hào vì mình là một thành viên
của cộng đồng và thấy “sợ”, “xấu hổ” khi làm những việc sai trái
ảnh hưởng đến mọi người. Ngược lại cộng đồng cũng đặt ra những biện
pháp về kinh tế (phạt), đánh vào lòng tự trọng loại ra khỏi cộng
đồng để ràng buộc và chế ngự lẫn nhau, khiến cho cuộc sống làng xóm
phố phường nơi nào cũng thuần phác đôn hậu, yên bình. Ví dụ, lệ làng
Ngọc Hà quy định: “Những điều cấm như buôn rượu lậu, hút thuốc phiện,
mở sòng bạc và bài lá lấy hồ, những người phạm tội đó dù đã bị
trị tội nhưng làm mất phong thể của làng, nên làng phạt không cho dự
tế tự ở chốn đình trung và không được can dự và bất kỳ việc gì của
làng”.
Có thể nói từ những quy định về vệ sinh trong ngõ xóm như: “Cấm không
ai được vứt rác bẩn ra đường và làm nhà xí bên cạnh đường, trâu bò
đi trên đường mà phóng uế ra thì phải dọn ngay, ai vi phạm bị phạt từ
1 đến 5 hào”. Hoặc “những đồ dùng của người ốm, người chết cấm không
được vứt xuống hồ ao. Lại cấm không được làm chuồng lợn, chuồng tiêu
cạnh hồ ao, đổ rác rưởi xuống hồ ao. Ai vi phạm bị phạt 3 hào” (Lệ
làng Đông Trù – huyện Đông Anh). Cho đến việc tang ma: “Tang lẽ là việc
đau buồn, thế mà người ta cứ quen thói làm cỗ bàn mời khách như đám
hội thật là trái lễ. Nay làng bỏ thói đó đi…Tang chủ chỉ được mời
những người hộ lễ và người giúp việc chứ không được làm cỗ mời
làng. Dù là người trong giáp hay ngoài làng sau khi an táng xong thì
vái tang chủ ngay ngoài mộ ròi về, không được vào nhà tang chủ ăn
uống. Tang chủ cũng tạ ơn hàng giáp hay người làng ngay ngoài mộ,
không được mời khách về nhà” (Lệ làng Đông Trù). Lại như cách đối xử
với người tu hành thế nào cũng được ghi vào lệ: “Chùa trong phường do
sư nữ trụ trì đèn hương thờ phật, là nơi vô cùng thanh tịnh. Phàm đàn
ông trong phường không có việc gì mà ngày đêm cứ qua lại thấp thoáng
trước ban thờ để dụ dỗ sư nữ. Còn đàn bà xúm xít vây quanh trong
chùa để tìm cách kiếm chác. Bản phường bắt được, lập tức phạt đánh
50 roi. Ai biết mà lờ đi không báo thì cũng bị tội như thế, để giữ
nghiêm khoán lệ” (lệ phường Xã Đàn).
Nếu loại đi tất cả những hủ tục như khao vọng chè chén, sự bất bình
đẳng về ngôi thứ, sự khắc nghiệt đến tàn nhẫn đối với phụ nữ của
ngày xưa, chắc rằng những điều mục trong “lệ làng” đã góp phần không
nhỏ tạo nên nét thanh lịch, những thuần phong mỹ tục của người Hà
Nôi.
Sau gần 60 năm giải phóng, Hà Nội đã và đang thay da đổi thịt. Người
Hà Nội thanh lịch hôm nay không còn lo chuyện cơm no áo ấm mà đang tiến
những bước dài hướng tới cuộc sống sung túc phong lưu. Đặc biệt đời
sống văn hóa tinh thần không ngừng được cải thiện và nâng cao bằng
nhiều hình thức phong phú, đa dạng, để xứng tầm với một thủ đô văn
hiến gần nghìn năm tuổi. Cùng với cả nước, Hà Nội đang thực hiện
cuộc vận động “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”. Thực
chất đây là sự kế thừa và tiếp nối truyền thống di sản văn hóa tốt
đẹp của cha ông mà phần nào được thể hiện qua những phong tục tập
quán, qua những “lệ làng”. Đồng thời tiếp thu những giá trị văn hóa
mới để Hà Nội thanh lịch, cổ kính, nhưng không cổ hủ. Hà Nội văn
minh, hiện đại nhưng không lai căng./.
(Cẩm nang tri thức Thăng Long/Vietnam+)