14/12/2012
|
10:03:00
Lịch sử 6 tên gọi của Hồ Tây
Trải qua các thời kỳ lịch sử, với văn hóa mỗi thời đại, hồ Tây đã có nhiều tên
gọi gắn liền với những câu chuyện dân gian kì lạ.
Có lẽ không ai còn nhớ thuở khai thiên lập địa, hồ Tây ngày nay có tên gọi
là gì.
Cũng như Đại La-Thăng Long-Đông Đô-Bắc Thành-Hà Nội hay đối với Sông
Cái-Nhị Thủy-Nhị Hà-Hồng Hà, trải qua các thời kỳ lịch sử, Hồ Tây cũng có những
tên gọi khác nhau.
Điều này phụ thuộc vào ý nghĩa văn hóa từng thời đại, cũng như ý chí chủ
quan của con người, nên mỗi tên gọi ấy đều gắn với từng sự tích, từng câu chuyện
dân gian.
Đầm Xác Cáo
Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất của hồ Tây, gắn với sự tích con hồ
ly tinh chín đuôi.
Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở
đó, có một con hồ ly tinh chuyên tác oai tác quái quấy nhiễu dân lành, nhưng
việc diệt trừ hồ ly tinh được kể trong các câu chuyện dân gian cũng khác nhau.
Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì thương xót con dân nên đã dâng nước
biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước.
Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên cũng vì thương xót và nghe lời cầu
khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Sau khi con cáo bị tiêu diệt, một hồ
nước đã được tạo ra. Từ đó, hồ có tên là đầm Xác Cáo.
Nguyễn Huy Lượng trong "Tụng Tây Hồ phú" có câu: "Trước bạch hồ nào ở đó làm hang/Long vương hổ nên vùng đại trạch" là để nói về sự tích này.
Hồ Kim Ngưu
Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu vàng. Song sự tích này cũng được kể
lại khác nhau.
Một câu chuyện kể rằng, khi con trâu vàng nghe tiếng chuông của ông Khổng
Lồ ngỡ là tiếng mẹ gọi, bèn chạy từ Trung Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó
cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và
con trâu sụt xuống tạo thành một vực sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ,
cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều không vớt được.
Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa ở núi Tiên Du có con trâu vàng bị một
Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi, chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh
của mình, nó đều tạo ra các dấu tích.
Cuối cùng nó chạy tới đầu sông Tô gặp một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội
thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, hồ
Tây có tên là hồ Kim Ngưu và dân gian còn truyền tụng câu:
"Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ/Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi."
Lãng Bạc
Theo "Tây Hồ chí", thì sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà
Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi hồ Tây là
Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào
những ngày giông bão, mặt hồ rộng, sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ
hùng tráng và nên thơ.
Dâm Đàm
Dâm Đàm với ý nghĩa là đầm tràn đầy nước. Có lẽ ý nghĩa ấy muốn nói tới sự
rộng lớn, mênh mang sóng nước của hồ Tây.
Tên gọi này cũng không biết chính xác được gọi trong thời gian nào, nhưng
theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì Dâm Đàm có tên thật từ thời Lý-Trần (thế kỷ
X-XV) với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương
mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái
sư Lê Văn Thịnh, và ông cho rằng Dâm Đàm nghĩa là hồ mù sương.
Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các
sách ghi chép khác nhau.
Sách "Việt điện u linh", truyện "Thái úy Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế
Xuyên" (Thế kỷ XIII) có đoạn viết: "Vào thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn
Thịnh nuôi được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được
thành hổ báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau
khi học được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô.”
Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện hoang đường, đó chỉ có thể là một màn
ngụy trang cho một sự tranh giành quyết liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào
cuối thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh.
Hoặc câu chuyện phản ánh mâu thuẫn về tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại.
Lúc này, Nho giáo đang dần khẳng định vị trí của mình mà Lê Văn Thịnh là
người khai khoa cho lịch sử khoa cử Nho giáo Việt Nam. Lê Văn Thịnh quê ở Bắc
Ninh, ông đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm 1075, đời Lý Nhân Tông, ông từng làm
chức Thị lang Bộ Binh.
Năm 1084, ông làm Chánh sứ đi sứ sang Tống, bằng tài ngoại giao, ông đòi
lại được vùng đất Vật Dương, Vật ác (Cao Bằng) từ triều đình phương Bắc. Vì công
lao của ông đối với triều chính, Lê Văn Thịnh được phong Thái sư năm 1096.
Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ
án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao
nhưng không bị giết vì Vua đã nghĩ đến công lao của ông.
Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua
Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi
mất, ông được lập đền thờ ở làng Võng Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng
Công.
Tây Hồ
Sử sách ghi rằng: “Đến năm 1573, để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là
Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ.”
Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm
sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc
đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung Quốc là chuyện bình
thường.
Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ nghĩa là hồ phía Tây kinh thành, e
không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản đồ Hà Nội, thì địa danh trên không
đúng theo phương vị Đông và Tây.
Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần
gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
Đoài Hồ
Chúa Trịnh Tạc (1657-1682) được phong tước Tây Vương, nên địa danh có chữ
Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài (quẻ Đoài thuộc phương Tây - ý nghĩa như nhau,
âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi
là Đoài Hồ.
Nhưng cái tên Đoài Hồ không được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh
Tạc dân ta gọi lại như cũ là hồ Tây./.
(Thanglonghanoi/Vietnam+)