15/10/2009
|
14:51:00
Lương Thế Vinh - Trạng nguyên đa tài
|
Lăng mộ Trạng nguyên Lương Thế Vinh tại làng Cao Phương. |
Trạng nguyên Lương Thế Vinh, tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, sinh ngày
1 tháng 8 năm Tân Dậu (1441) trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao
Hương, huyện Thiên Bản, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định.
Thời niên thiếu, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh,
nhanh trí. Lớn lên, Lương Thế Vinh càng học giỏi, học có phương pháp, kết hợp
học với lao động, vui chơi giải trí.
Chưa đầy hai mươi tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng
Sơn Nam. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1463),
Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi.
Cuộc đời 32 năm làm quan, Lương Thế Vinh đều ở Viện hàn lâm, trải thăng
đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự, đứng đầu Viện hàn lâm.
Ông có
biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn từ
bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài.
Nhiều bài biểu do Lương Thế Vinh soạn gửi cho vua Minh để giải quyết mối
quan hệ giữa hai nước, đều được vua Minh chấp thuận. Vua Minh phải khen là “nước
Nam có lắm người tài”.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh còn dạy học ở Quốc tử giám, Sùng văn quán và
Tú lâm cục là những trường cao cấp thời bấy giờ đào tạo nhân tài cho đất nước về
văn chương và toán học.
Học trò của ông có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại (người làng
Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình), đỗ tiến sĩ năm 1469; Lương Đắc Bằng
(làng Hội Triều, nay thuộc Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa), đỗ bảng nhãn năm
1499.
Lương Thế Vinh không những dạy toán học ở Tú lâm cục, ông còn giữ chức Cấp
sự trung khoa công, chuyên khảo sát việc tạo tác các công trình như cung điện,
đền đài, thành quách, đường sá, đê điều... cần đến toán học.
Ông đã biên soạn cuốn Đại thành toán pháp để tiện dùng, đó là cuốn sách
giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến
thức toán thời đó và cả những phát minh của ông.
Trong sách dạy các kiến thức về số học, phương pháp đo lường bóng (phương
pháp đồng dạng), hệ số đo lường, cách cân, đo, đong, đếm, định vị, đơn vị, tiền
vải..., dạy toán đạc điền...
Điều đáng chú ý là cuốn sách soạn từ thế kỷ XV, mà mãi đến thế kỷ XIX nó
vẫn được dùng làm sách giáo khoa để dạy toán trong các trường học.
Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán thật là thô sơ nghèo nàn. Ở
Việt Nam lúc đó công cụ tính toán chủ yếu vẫn là hai bàn tay bằng cách “bấm đốt
ngón tay”. Khi đó người ta còn dùng một sợi dây với những nút thắt làm công cụ
đếm (thắt nút, cởi nút)...
Sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Lương Thế Vinh sáng chế ra một công cụ tính
toán lợi hơn. Cuối cùng ông đã sáng chế ra bàn tính gẩy - chiếc bàn tính đầu
tiên của Việt Nam. Lúc đầu ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, xâu
vào một cái đũi, các xâu buộc cạnh nhau thành một bàn tính ông cải tiến dần
những “viên tính” bằng đất thành những đốt trúc ngắn, rồi những viên tính bằng
gỗ sơn màu khác nhau để dễ tính, dễ nhớ.
Lương Thế Vinh am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát chèo. Ông đã cùng Thân
Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc dùng trong quốc lễ và
triều hội. Ông nghiên cứu hàng trăm phường chèo, biên soạn cuốn Hý phường phả
lục ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh
trống chèo, phương pháp múa và hát.
Năm 1501, năm năm sau khi ông mất, bạn ông là tiến sĩ Quách Hữu Nghiêm
(người Thái Bình) đã đề tựa và đưa in tác phẩm trên. Lịch sử Việt Nam - tập 1,
xuất bản năm 1971 đã ghi nhận: “Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh xuất
bản năm 1501 có thể coi đó là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát
cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm và nêu lên những nguyên tắc có tính
chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống”.
Về văn thơ, Lương Thế Vinh cũng có nhiều đóng góp. Ông giữ chức Sái phu
trong hội thơ Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, là người chuyên phê bình, sửa chữa
thơ trong hội, nhiều lần đã ngâm họa với vua Lê như bài Tướng sĩ nhớ nhà và bài
Động Lục Vân.
Ông còn cùng với Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Đào Cử soạn nhiều bài ký, văn
bia ở Văn Miếu, ở chùa Diên Hựu (Một Cột). Ông để lại hai bài phú ca ngợi cuộc
sống thanh cao, không màng danh hoa phú quý. Văn thơ của Lương Thế Vinh, nhìn
chung thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, thương dân, căm ghét bọn quan lại tham
nhũng, thích cuộc sống thanh cao, gần gũi với dân quê.
Lương Thế Vinh là người trọng thực học, thích mở mang kinh tế. Ông đã dạy
dân làng Hương làm nghề thuốc bắc, thuốc nam chữa bệnh cứu người, khuyến khích
mở nhiều chợ búa để dân mua bán, trao đổi hàng hóa.
Yêu nước, thương dân, ông luôn muốn cho đất nước thanh bình, dân ấm no,
triều đình và dân cùng lo việc nước. Với suy nghĩ như vậy, nên đoạn văn sách thi
Đình nổi tiếng đó, Lương Thế Vinh khuyên nhà vua ra sức kén chọn người hiền tài,
đặt quan chức để “vì dân mà làm việc”, khuyên nhà vua và triều đình phải “đồng
tâm nhất thể”.
Cuối đời trạng nguyên Lương Thế Vinh về trí sĩ tại quê nhà. Ông về hưu
thực ra không phải vì ốm yếu, mà ông muốn rảnh rỗi trở về sống yên tĩnh ở quê
hương, làm thêm việc gì có ích trước khi xuôi tay, nhắm mắt.
Nhân dân Cao Hương yêu mến Lương Thế Vinh. Nhưng yêu hơn vẫn là đám học
trò đã và đang học Lương Thế Vinh. Cứ đến mùa sen nở, ông lại một lần tiễn học
trò mình đi thi. Học trò Sơn Nam đến theo học ông ngày càng đông và không ít
người đã thành đạt.
Rút từ bài học bản thân mình, Lương Thế Vinh rèn cho học trò một cách học
thông minh. Khi học ra học, khi chơi ra chơi, không học ngày học đêm theo cách
sôi kinh nấu sử.
Tuổi ngày càng cao, nhưng cũng như thú vui thả diều, hàng ngày Lương Thế
Vinh thường la cà quán nước, nhất là quán cây đa cổ thụ có bóng râm mát cả một
vùng rộng ở làng bên. Ở nơi đây ông có thể nghe được nhiều điều hay dở để răn
dạy học trò, răn dạy người đời và cũng để sửa mình nữa.
Ông rất yêu con trẻ, thường bày cho chúng những trò chơi vui nhộn và bổ
ích. Thấy trẻ rất thích nặn con rối, ông đã nghĩ ra cách chơi rối nước.
Trò chơi
này thật vui, thật hấp dẫn. Người các nơi tìm đến học để phổ biến ở quê mình. Từ
đó múa rối nước trở thành một loại nghệ thuật sân khấu đặc sắc trong nhân dân,
truyền mãi đến ngày nay.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà ngày 26/8 năm Bính Thìn
(1496), thọ 55 tuổi.
Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh,
đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh
vọng vượt bậc”.
Hình ảnh trạng nguyên Lương Thế Vinh còn sống mãi trong tâm thức mọi người
bằng truyền thuyết và giai thoại về cuộc đời, sự nghiệp, tài đức và lòng yêu
nước, yêu dân của ông.
Nhân dân làng Cao Hương đã quý mến giữ gìn phần mộ của ông tại khu Mả
Trạng. Đền thờ trạng nguyên Lương Thế Vinh được xây dựng trên nền nhà cũ tại
Giáp Nhất, làng Cao Hương./.
("Danh nhân Hà Nội/Vietnam+)