Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã
Sơn Tây, Hà Nội, cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.
Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã
sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.
Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại
kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các
thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân)
mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như
chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc"
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền có võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông đã từng
tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ
đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.
Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La.
Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức thứ sử Hoan Châu, gả con
gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao coi giữ Ái châu. Chính quyền họ
Dương tồn tại bảy năm (từ năm 931 đén tháng 3 năm Đinh Dậu 937) thì Dương Đình
Ngệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để cướp
đoạt chức Tiết độ sứ.
Là người có tài đức và ý
chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền sớm trở thành
linh hồn của ngọn cờ yêu nước.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
Vào những ngày mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền từ Ái châu đem quân ra hỏi
tội Kiều Công Tiễn.
Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương
ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) thì dưới sự chỉ đạo của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đã cầm quân tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.
Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch
chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến
chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La
dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền.
Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các
tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm
chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau:
"Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe
Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta
sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền
chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được.
Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn
bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thuỷ triều lên tiến vào bên trong hàng
cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn kế ấy cả".
Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận "quyết chiến chiến lược" đã được
quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và
bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng biển đông bắc chuẩn bị chiến
trường đón đánh thủy quân Nam Hán.
Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và
các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô
Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê,
còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viện (đều thuộc huyện An
Hải, Hải Phòng).
Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái châu, nơi ông trấn
trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung tăng cường và nhanh
chóng. Nhân dân khắp nơi nô nức mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ
quân đội. Chỉ riêng một thôn Gia Viện nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh cũng đã có
hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình
nguyện nhập ngũ.
Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông
vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và
tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ
vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa
đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km.
Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh
Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài
hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và
dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.
Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm
xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc
chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.
Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì
thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp
rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.
Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng
Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương
Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu
ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và
sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.
Từ cửa biên ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do
chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ
xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc
chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.
Cả
đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị
dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn.
Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu
diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận.
Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra
nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không
kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà
rút lui'.
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ
thuật quân sự Việt Nam.
Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều,
Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo len thế
mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng
lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.
Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô
Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu
Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa.
Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận trung kết toàn thắng của dân tộc ta trên
con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.
Chiến công hiển hách
đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính
quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn
thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.
Ngô Vương Quyền và kinh đô Cổ Loa
Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, dân tộc ta không những chấm dứt
ách đô hộ hơn nghìn năm của Phương Bắc, mà còn tạo điều kiện tiến lên xây dựng
một quốc gia độc lập hoàn toàn.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng
vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô
nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua
Thục.
Sử gia Lê Văn Hưu đời Trần nêu cao ý tưởng này của Ngô Vương Quyền khi viết với
Ngô Vương "chính thống của nước Việt ta đã nối lại được".
Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập: "đặt
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế
vương".
Bà vợ họ Dương, con gái Dương Đình Nghệ, được lập làm hoàng hậu. Triều đình của
Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều
hoàn toàn độc lập.
Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến tranh chống Nam Hán đều được phong tước,
cấp thái ấp như Phạm Lệnh Công được phong đất ở miền Nam Sách Giang (Nam Sách,
Hải Dương).
Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939 944). Trong sáu năm ngắn ngủi đó chắc
chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học
chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng
hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương.
Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vương Quyền khi đóng đô
ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở
trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: "Cây đa
nghìn tuổi", "giếng nước nhà Ngô".
Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung
tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm
Bắc thuộc.
Ngô Quyền mất năm 944, thọ 47 tuổi.Tại quê hương xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) có đình thờ và lăng Ngô
Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như
rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng; gần đó có những rộc sâu, tương
truyền xưa kia là hồ sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò
thủy chiến.
Tại thành phố Hải Phòng, bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cũng có những
ngôi đền và đình thờ Ngô Quyền. Ở đình Hàng Kênh - ngôi đình tráng lệ ở Hải
Phòng xây dựng năm 1718 - có câu đối lớn với dòng chữ nho:
"Vương nghiệp khởi
nghiệp Loa Thành, trường biên thanh sử.
Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân"
nghĩa là: "Vương nghiệp bắt đầu từ
Loa thành lưu mãi trong sử sách. Chiến công lưu lại trên sông Đằng, trong đó có
ân phúc của loài cây"./.