05/05/2010
|
15:58:30
Người gắn bó nghiên cứu hương ước Thăng Long
Mấy chục năm qua, với vốn hiểu biết uyên thâm về chữ Nôm, chữ Hán, phó giáo
sư-tiến sĩ Nguyễn Tá Nhí đã dày công nghiên cứu, sưu tập và biên dịch những bản
hương ước cổ Việt Nam.
Ông chính là người chủ biên "Tuyển tập Hương ước Thăng
Long-Hà Nội" dày khoảng 1.000 trang trong tủ sách Nghìn năm Thăng Long-Hà Nội
chuẩn bị xuất bản.
Xuất thân đất học
Phó giáo sư Nguyễn Tá Nhí quê ở vùng đất khoa bảng Thanh Oai, với những danh sĩ
tiền bối rất nổi tiếng như Đoàn Huyên, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ… nên ông có điều
kiện tiếp xúc với văn hóa cổ. Tuy nhà làm nghề nông, nhưng các cụ đều biết chữ
Hán, cha ông từng mở lớp dạy chữ Hán tại nhà.
Năm 1964, ông đỗ đại học Nông nghiệp, theo lời khuyên của bố, năm sau ông thi
lại vào đại học Sư phạm Ngoại ngữ, học khoa Trung Văn. Ra trường, ông được giữ
lại làm cán bộ giảng dạy khoa Trung Văn trường đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội.
Đó chính là nhân duyên để ông theo đuổi và yêu thích chữ Hán.
Dạy học được 4 năm, đến đầu năm 1973 việc dạy tiếng Trung ở bậc phổ thông hạn
chế, vì vậy quy mô đào tạo trường sư phạm hẹp lại. Thời điểm đó, Ủy ban Khoa học
Xã hội mở lớp Hán Nôm nên ông về tham gia lớp chuyên tu khóa 2 và làm việc ở
Viện Hán Nôm 38 năm từ đó đến lúc nghỉ hưu.
Trong học tập Hán Nôm, có một cơ duyên may mắn là thế hệ ông được học trực tiếp
từ các bậc nho học xưa. Thầy giáo là cụ Lê Thước - người đỗ giải nguyên cuối
cùng, là học giả Đào Duy Anh, là giáo sư Nguyễn Sĩ Lâm và ảnh hưởng lớn nhất là
cụ Đỗ Ngọc Toại, người làng Đông Ngạc, thân phụ của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Đỗ
Quốc Sam.
Khi dạy học, các cụ rất chú trọng tính mực thước của chữ nghĩa và rèn học trò
theo tinh thần nhà Nho là tiên học lễ, hậu học văn. Sau khi học tiếng Trung, ông
lại được nhà trường cho đi học ngôn ngữ học do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trực tiếp
giảng dạy. Từ năm 1977 đến năm 1981 ông lại tiếp tục đi học văn bằng 2 tiếng
Pháp.
Phó giáo sư Nguyễn Tá Nhí là người đã biên khảo từ điển chữ Nôm. Dự tính có
khoảng 15.000 chữ Nôm. Trong cuốn sách xuất bản năm 2009 ông đã đưa vào đó
12.000 chữ, sau này tái bản sẽ đưa thêm 3.000 chữ nữa.
Hương ước Hà Nội
"Tuyển tập Hương ước Thăng Long - Hà Nội" của ông cùng các đồng nghiệp bắt đầu
thực hiện từ tháng 8 năm 2009, trong đó có chuyển dịch 60 bản Hương ước của các
làng xã Hà Nội. Tiêu chí lựa chọn là các bản hương ước cổ có giá trị, như hương
ước làng Dương Liễu-Hoài Đức có từ đời vua Lê Cảnh Thịnh, thứ hai là nhằm giới
thiệu về các làng nghề như hương ước của phường Long Đằng ở Đông Ngạc, Từ Liêm.
Theo phó giáo sư Nguyễn Tá Nhí, một bản hương ước ngắn có khoảng 12 điều, bản
hương ước dài thì khoảng 300 điều. Đó là các quy tắc sống của các thành viên
trong một cộng đồng làng xã, thường có thể khái quát 7 nội dung: sản xuất lao
động; trật tự trị an, bảo vệ làng xóm; giao thông vận tải, đi lại, đường xá;
khuyến học, khuyến khích người tài; thờ cúng, tâm linh, tôn giáo; quan hệ ứng xử
liên quan đến tập tục, chủ yếu là hiếu hỉ; và cuối cùng là những biện pháp duy
trì hương ước.
Theo ông, biện pháp duy trì hương ước là điều quan trọng nhất. Thường có 5 biện
pháp, nhẹ nhất là trừng phạt về kinh tế như phạt tiền; thứ hai là bắt lao động
công ích, bắt đi quét đình, đắp đường; thứ ba là hạn chế quyền lợi về chính trị
xã hội như tẩy chay không cho vào đình, không cho tham dự việc làng mấy năm và
những người trong làng không tham gia vào công việc của người vi phạm hương ước
như cưới con không ai đến, bố mẹ mất không ai khênh; thứ tư là tẩy chay đuổi ra
khỏi làng; thứ năm là thề thốt trước thần linh.
Hương ước của làng Cổ Pháp, xã Phụng Châu huyện Chương Mỹ là hương ước khắc trên
bia đá. Hàng năm vào dịp hội làng, chủ tế mang bản hương ước ra cùng với một cái
búa, hòn đá, đặt lễ vật trước bia đá, sau khi đọc lại các điều khoản của hương
ước, ai vi phạm hương ước này thì “thần linh tru diệt.” Sau đó chủ tế lấy búa
đập vỡ viên đá ra. Điều đó như thể thề độc trước thần linh.
Để có được những bản hương ước cổ, phó giáo sư Nguyễn Tá Nhí đã nhiều năm lặn
lội lang thang khắp những ngôi làng cổ của Hà Nội và xứ Đoài xưa. Như ở xã Quảng
Phú Cầu - Ứng Hòa, người làng còn giữ được bản hương ước rất cổ, cả đêm ông phó
chủ tịch xã ngồi chong đèn để phó giáo sư Nguyễn Tá Nhí dịch hương ước cho làng.
Ảnh hưởng của hương ước đất Kinh kì
Đất Kinh đô Thăng Long cũ rất nhỏ, nên không chỉ Hà Tây mà cả bốn vùng xung
quanh gọi là tứ trấn, trấn đông là Hải Dương, trấn Bắc là Kinh Bắc, Bắc Ninh,
trấn tây là Sơn Tây, trấn nam gọi là vùng Sơn Nam.
Vùng đất sát nhập Hà Tây với Hà Nội chính là Sơn Nam và Sơn Tây, vốn có sự giao
thoa văn hóa từ xưa. Những người có năng lực tài giỏi đến làm quan ở thủ đô và
khi thôi không làm quan nữa thì ở những vùng quanh Hà Nội như cụ Phạm Quý Thích,
Vũ Tông Phan vốn quê ở Hải Dương, rồi dòng họ cụ Phan Huy Ích thì về ở Hà Tây.
Như vậy vùng đất Hà Nội mở rộng thực chất gắn bó rất chặt với Thăng Long. Đến
một thời kì mà hương ước được soạn ra nhiều, trong luật thời Hồng Đức có quy
định, những người soạn hương ước phải là những người có học thức, có trình độ
mới được làm công việc ấy.
Do vậy, những người tham gia soạn thảo hương ước có thể là những vị đã từng làm
quan ở kinh kỳ Thăng Long sau đó quay trở về, mang những văn minh, văn hóa Kinh
kì quay trở lại xây dựng quê hương.
Tiêu biểu như ba cha con ông Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính, ba
đời được thờ làm thành hoàng làng, khi về hưu đều về ở làng hết. Ông Nguyễn Quý
Đức xây dựng một ngôi nhà gọi là Lạc Thọ Đình để mời mọi người đến, những điều
khoản trong hương ước làng đều có ý kiến của ông.
Có thể thấy hương ước của vùng đất Hà Nội cũ với vùng đất Hà Nội mở rộng gắn bó
chặt chẽ với nhau và dường như khó tìm thấy sự khác biệt lớn.
Những hương ước ở khu vực nội thành Hà Nội cũ chủ yếu vẫn là hương ước của các
làng, phường. Như hương ước đình Thổ Quan, đình Kim Ngân ở phố Hàng Bạc. Phường
là những đơn vị cư dân có nghề nghiệp gần giống nhau, có thể là kinh doanh buôn
bán hay sản xuất mặt hàng gì đó, gọi là hương ước của làng nghề với nhau. Liên
kết của các phường ngày xưa mang tính chất ràng buộc nghề nghiệp. Còn những
“hương ước phố,” thực chất là hương ước của những làng Việt cổ đã được “đô thị
hóa.”
Luật nước và lệ làng (hương ước) dường như luôn là khung pháp lý cho sự tồn tại
và giúp cho mọi thế hệ người Việt Nam tồn tại và phát triển trong mọi thăng trầm
của lịch sử.
Luật nước phải dựa vào lệ làng mà "thẩm thấu" vào đời sống xã hội. Lời tựa hương
ước làng Tây Mỗ viết: "Đối với làng tức là đối với nước, vì góp làng lại thành
nước, làng là gốc nước, làng có hay thì nước mới thịnh vậy"...
Hương ước làng Thổ Khối, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm viết: "Làng có luân lý, ăn
ở cho phải đạo có khoán ước ràng buộc cho hợp lệ, cũng như Nhà nước có quy thức,
luật lệ để khuyên căn, ngăn cấm lòng dân, chính là nghĩa trời sinh đặt nước làm
vậy..."
Hương ước cho thấy, tổ tiên đã có các nguyên tắc sống ra sao, đối nhân xử thế
thế nào. Những nghiên cứu về hương ước như công trình của phó giáo sư-tiến sĩ
Nguyễn Tá Nhí giúp cho chúng ta hiểu thêm quá khứ, hiểu thêm về đời sống của cha
ông ở chính đất Thăng Long-Hà Nội./.
(TTXVN/Vietnam+)