08/03/2015
|
06:26:00
Người thợ đàn đất Thăng Long chế tác các loại nhạc cụ dân tộc
Chúng tôi đến xưởng đàn của ông Cao Kỳ Kỉnh ở ven chợ Thành Công (phường
Thành Công, Ba Đình, Hà Nội) gặp lúc ông đang cắm cúi xẻ gỗ làm cần đàn
cho đàn nhị.
Cao hứng khi có khách đến nói chuyện, ông đứng dậy lấy cây sáo tre ra
thổi... Tiếng sáo vi vút lúc trầm lúc bổng cuốn hút chúng tôi.
Ông Cao Kỳ Kỉnh quê ở làng Quế Dương, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Ông lớn lên trong gia đình có nghề làm nhạc cụ.
Năm 2004, vợ chồng ông lên Hà Nội bán hàng mưu sinh. Những lúc rảnh rỗi,
ông lựa gỗ đẽo làm đàn rồi chiều tối mang ra chơi. Dần dà, nghe tiếng
đàn, nhiều người ưa thích tới đặt mua nên từ đó ông Kỉnh mở xưởng chế
tác đàn ngay tại nhà.
Sau một thời gian mày mò, dày công nghiên cứu, ông chế tác được hầu hết
các loại đàn truyền thống của dân tộc.
Để tìm nguyên liệu chế tác đàn, ông lặn lội về tận quê nhà ở Quế Dương
lùng sục khắp nơi mua những loại gỗ tốt như vông, gạo, lim, trắc, thông
(loại không có dầu).
Những loại nhạc cụ lần lượt ra đời nhờ sự kiên trì, mày mò, sáng tạo của
ông Kỉnh. Ông Kỉnh vừa là chủ và cũng vừa là người thợ duy nhất của
xưởng đàn.
Xưởng đàn của ông đã sản xuất được 20 loại nhạc cụ như đàn bầu, đàn
tính, đàn đáy, đàn tam thập lục, đàn tỳ bà, đàn hồ, đàn nguyệt, tiêu,
sáo, khèn mèo, trống cơm...
Khách hàng của ông là các đội văn nghệ ở Hà Nội và nhiều sinh viên
trường âm nhạc, bởi đàn do ông sản xuất có chất lượng tốt và giá cả phải
chăng.
Ông Cao Kỳ Kỉnh miệt
mài xẻ gỗ làm đàn
Với những dụng cụ đơn
giản như chiếc bào cũ kỹ này, ông Kỉnh đã làm nên nhiều loại nhạc cụ độc
đáo có chất lượng âm thanh tốt
Chiếc khoan máy giúp
ông khoan chính xác những chiếc lỗ để gắn thanh lên dây đàn trên cần đàn
Ông Kỉnh tỉ mẩn chỉnh
sửa một chiếc đàn nguyệt
Những phím đàn được
trau chuốt, mãi dũa cẩn thận
Ông Kỉnh tự tay lên
dây đàn cho từng chiếc đàn do mình sản xuất
Và ông cũng tự mình
thẩm âm những chiếc đàn vừa làm xong.
Ông Kỉnh giới thiệu với chúng tôi một số loại nhạc cụ do chính ông cải
tiến có hiệu quả. Đối với đàn bầu, ông thay đổi hộp cộng âm, không dùng
thiết bị tăng âm nhưng đàn vẫn có âm lượng cao gấp 3 lần bình thường và
tiếng nghe trầm ấm hơn. Còn với cây đàn tam thập lục ông đã “nâng cấp”
từ 16 dây thành 19 dây để âm thanh nghe vang rõ.
Ngoài việc chế tác nhạc cụ, ông Cao Kỳ Kỉnh còn tích lũy được cả một
“kho” kiến thức về các loại nhạc cụ truyền thống của dân tộc. Vì thế ông
có thể nói vanh vách về tính năng của từng loại đàn.
Ví dụ, đàn nhị thuộc bộ dây có 2 dây có âm vực rộng, âm thanh trong
sáng, mềm mại thường dùng diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền. Đàn
tranh hình hộp dài khung hình thang, âm sắc trong trẻo thể hiện điệu
nhạc vui tươi.
Đàn bầu thuộc nhạc cụ đàn một dây, ngày xưa dùng tơ tằm xe thành sợi dây
đàn. Đàn bầu có hai loại là thân tre và đàn hộp gỗ đều cho âm thanh
ngọt ngào, sâu lắng.
Đàn đáy chỉ có ở Việt Nam, độc đáo từ hình dạng, âm thanh đến thể loại
âm nhạc được dùng cho hát ca trù.
Đàn tam thập lục hình thang cân có 36 dây, âm thanh thánh thót, rộn rã,
giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu, chèo, cải lương...
Những loại nhạc cụ dân tộc do ông Cao Kỳ Kỉnh chế tác thường có giá từ
vài trăm nghìn tới hai triệu đồng. Với ông, làm đàn ngoài việc mang đến
thu nhập cho cuộc sống còn là một thú vui tao nhã nhằm bảo tồn các loại
nhạc cụ truyền thống của ông cha./.
(Báo Ảnh Việt Nam/Vietnam+)