23/11/2016
|
15:48:00
Nhận diện các loài linh vật Việt trong dòng chảy lịch sử và văn hóa
|
(Ảnh: An Ngọc/Vietnam+) |
Linh vật là những con vật trong huyền thoại hoặc có thật được linh
thiêng hóa, bao gồm: rồng, phượng, nghê, lân, sư tử, voi, ngựa…
Trong truyền thống văn hóa Việt, linh vật được sử dụng như những biểu
tượng văn hóa để truyền đạt ý niệm và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng… Bên
cạnh đó, linh vật cũng góp phần quan trọng phản ánh diễn trình phát
triển của nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Những loại linh vật này do người Việt Nam trực tiếp sáng tạo ra hoặc là
sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa bên ngoài. Trong quá
trình đó, linh vật vừa mang những đặc điểm chung, phù hợp với truyền
thống văn hóa Việt vừa có những biển đổi, thể hiện phong cách nghệ thuật
đặc trưng của mỗi thời kỳ.
Rồng, sư tử, nghê và phượng là những linh vật xuất hiện phổ biến.
Rồng
Thời Lý-Trần, Phật giáo là quốc giáo. Bởi vậy, hình tượng rồng thời kỳ này cũng chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo.
Rồng thời Lý-Trần có tính biểu tượng cao và đặc điểm tạo hình đẹp, thống
nhất (uốn lượn đều đặn, thắt túi nhỏ dần về đuôi; tùy từng môtíp trang
trí lớn hay nhỏ mà con rồng có vẩy hoặc không). Thời kỳ này, hình tượng
rồng thường xuất hiện trong các công trình kiến trúc (dùng để trang trí
thành bậc, bệ thờ, ngói…); là điểm nhấn trang trí tạo nên vẻ đẹp của
nhiều di tích như Hoàng thành Thăng Long, chùa Thầy (Hà Nội), chùa Phật
Tích (Bắc Ninh), chù Phổ Minh (Nam Định)…
Đến thời kỳ Lê sơ, Nho giáo phát triển mạnh. Tạo hình rồng có nhiều thay
đổi, rời xa tạo hình thời Lý-Trần. Rồng trở thành biểu tượng cho uy
quyền nhà vua. Ví dụ, những con rồng trên bia lăng các vua Lê (Thanh
Hóa) có tạo hình đầu to, bờm tóc thô dày, mũi lớn, nhiều sợi ria, sừng
vặn xoắn ốc rồi chẻ chạc, chân gân guốc xòe rộng các ngón…
Hình ảnh rồng đá thành bậc ở đình Phương Quan (Hà Nội). (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội)
Tới thời Mạc, Lê Trung Hưng, hình tượng rộng tiếp tục có nhiều biến đổi:
đầu cân đối, đường cong trán lớn, hàm mở rộng vừa phải có răng nanh phô
diễn uy quyền, bờm được chạm khắc uyển chuyển như đang chuyển động…
Trong các kiến trúc làng xã, đặc biệt là ở xứ Đoài, tạo hình rồng mang
nhiều yếu tố dân gian: cặp mắt to tròn, tai xòe rộng, hàm mở rộng…
Sư tử
Hình tượng sư tử trong các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc,
tượng thờ truyền thống được du nhập vào Việt Nam qua con đường Phật
giáo. Sư tử thường được coi là linh vật bảo hộ cho các đền, chùa.
Theo phó giáo sư-tiến sỹ Tống Trung Tín (Hội Khảo cổ học Việt Nam), thời
gian qua, có nhiều người nhầm lẫn trong việc sử dụng hình tượng linh
vật này (không phân biệt được sự khác nhau giữa sư tử đá của Việt Nam và
sư tử đá của Trung Quốc).
Sư
tử được tạo tác từ đá - thế kỷ 11. Ảnh chụp tại triển lãm “Hình tượng
sư tử và nghê trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam,” diễn ra tại Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam tháng 11/2014. (Ảnh: An Ngọc/Vietnam+)
Ở Việt Nam, sư tử đá là những con sư tử dạng cách điệu, được chạm khắc
công phu, trau chuốt với những đường nét mềm mại, mang nhiều nét dân
gian, có phần gần giống hổ hoặc lân; biểu hiện rất rõ sức mạnh phi phàm
nhưng vẫn giữ được dáng vẻ vẫn hết sức gần gũi, bao dung.
Trong khi đó, ở Trung Quốc, sư tử đá là linh vật để canh mộ có hình thức
dữ dằn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa. Khi du nhập vào Việt Nam theo kiểu
sao y bản chính, những con sư tử đá này ngang nhiên “chễm chệ” ở lối ra
vào các đình, chùa, công sở và một số nhà dân với ý nghĩa giúp phát tài
phát lộc.
Nghê
Hiện nay, giới nghiên cứu vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về hình
tượng linh vật này: có ý kiến cho rằng, đó là một con vật thần thoại
(vốn là con của rồng) nhưng cũng có ý kiến cho rằng, đó là con chó được
thiêng hóa để phụng sự các vị thần.
Tạo hình nghê ở Việt Nam có nhiều dạng khác nhau: khi thì uy nghi, lúc
lại đùa giỡn thân thiện. Hình tượng nghê phát triển mạnh vào thời kỳ Lê
Trung Hưng, được sử dụng để trang trí các công trình kiến trúc, phù
điêu, đồ gốm sứ, đứng chầu bên hương án, cửa khám…
Nghê
gỗ ở chùa Xối Thượng (Nam Định), thế kỷ 17-18. Ảnh chụp tại Triển lãm
chuyên đề “Hình tượng sư tử và nghê trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt
Nam,” diễn ra tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tháng 11/2014. (Ảnh: An
Ngọc/Vietnam+)
Với tạo hình gần gũi, ngoài chức năng là một chỉ hiệu về cõi thiêng,
nghê còn mang trong mình ý nghĩa biểu tượng về cầu mong mưa thuận gió
hòa, gắn với tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp.
Phượng
Thời Lý-Trần, hình tượng phượng được sử dụng nhiều trong các mảng chạm
khắc tại các công trình kiến trúc hay những tác phẩm điêu khắc trang
trí, biểu trưng cho yếu tố nữ.
Ở thời kỳ này, phượng có lối tạo hình chung: nhìn nghiêng, hai con đăng
đối ứng trong lá đề, phía dưới là một hình mây xoắn, lông đuôi dài bay
uốn lượn lên phía trên. Phía trong cốt đuôi được thể hiện thành những
chấm tròn chạm thành dải dài lượn sóng và chạy dài nhỏ dần về cuối. Hai
cánh phượng dang rộng. Cổ phượng ngắn, mắt tròn, đầu nhỏ, bờm gáy cũng
đang bay vút lên phía trên.
Chạm khắc hình tượng phượng tại đình Chu Quyến, Hà Nội. (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội)
Từ thời Lê về sau, tạo hình phượng có nhiều thay đổi theo lối dân gian
gần gũi, hình khối tự nhiên; được dùng để trang trí trên những cấu kiện
gỗ ở các công trình kiến trúc, đồ thờ.
[Tài liệu về các loại linh vật do Bảo tàng Hà Nội cung cấp - PV]
Theo Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg (ngày
24/2/2005) của Thủ tướng Chính phủ, ngày 23/11 hàng năm được chọn là
Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam nhằm “phát huy truyền thống và ý thức trách
nhiệm của những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa Việt Nam, động viên các tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự
nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.”
An Ngọc (Vietnam+)