18/02/2010
|
17:01:00
Những người "muôn năm cũ" và thú chơi sách cổ
|
Ngày càng nhiều “những người muôn năm cũ” trẻ tuổi. (Ảnh: TT&VH) |
Nói như nhà thơ Vũ Đình Liên, họ là “những người muôn năm cũ”. Bởi họ làm
cái công việc lưu giữ những giá trị xưa cũ thông qua một thú đam mê: chơi sách.
Và trái với hình dung của nhiều người, hầu hết họ đều còn trẻ...
Từ điển Việt-Bồ-La cũng có!
Nếu theo cách diễn đạt trong "Tam Quốc diễn nghĩa" thì trên bầu
trời của thế giới chơi sách xưa, ở thời điểm hiện tại, “xem thiên văn, thấy sao
sáng hầu hết tụ ở phương Nam!”.
Thật ra, các tay chơi sách sừng sỏ tập trung nhiều ở phía Nam cũng có lý
do của nó. Họ có “thiên thời”, nguồn sách xưa phong phú, dẫu bị thất tán đi
nhiều qua năm tháng nhưng cũng còn giàu có hơn nhiều so với phía Bắc; có “địa
lợi”, vì khí hậu khô nóng ở phương Nam thuận lợi cho việc bảo quản sách, không
ẩm thấp như phương Bắc, chưa kể các đô thị lớn ở miền Bắc thời chiến tranh đều
bị ném bom, cứ mỗi lần gia chủ đi sơ tán là một lần sách vở hao hụt; có “nhân
hòa”, vì các tay chơi sách chịu khó trao đổi sách, lại có thêm những người bán
sách chuyên nghiệp làm cầu nối, tạo nên một “thị trường” sách xưa…
Một trong những tay chơi sách sừng sỏ bậc nhất hiện nay là H.M, ở Thành
phố Hồ Chí Minh, làm việc bên ngành hàng không. H.M còn trẻ nhưng đã có thâm
niên chơi sách khá lâu và được anh em trong giới chơi sách xưa thật sự ngưỡng mộ
bởi không chỉ có một bộ sưu tập cực kỳ hoành tráng, mà còn bởi những kiến thức
vô song của anh về thế giới sách xưa mà anh lúc nào cũng sẵn lòng chia sẻ với
bạn chơi.
H.M sưu tập nhiều mảng, nhưng ấn tượng nhất là mảng sách xưa và từ điển.
Trong mảng sách xưa, anh có những ấn phẩm cực kỳ quý hiếm của thời kỳ đầu chữ
quốc ngữ ở Việt Nam. Có thể kể ra các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký như "Sơ học
vấn tân quốc ngữ diễn ca" (xuất bản năm 1884), "Minh tâm bửu giám"
(1893), "Tứ thư" (1889); "Chuyện giải buồn" (1886) của Huỳnh Tịnh
Của; các tác phẩm của Thế Tải Trương Minh Ký (học trò Trương Vĩnh Ký) như "Ca
từ diễn nghĩa" (1896), "Trị gia cách ngôn" (1895), "Tập dạy học
tiếng Phansa và tiếng Annam" (1892), "Ấu học khải mông" (1893),
"Chư quấc thại hội" (1896, thuật lại cuộc đi Pháp dự đấu xảo năm 1889),
"Tuồng Kim Vân Kiều" (1914)...
Những học giả có công lớn trong việc truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam
như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh cũng có tác phẩm nằm trong bộ sưu tập của H.M.
Phạm Quỳnh có "Khảo về tiểu thuyết" (1929), "Ba tháng ở Paris"
(1927), "Phật giáo đại quan" (1925)... Nguyễn Văn Vĩnh có các tác phẩm
dịch "Ngụ ngôn La Fontaine", với nhiều minh họa của họa sĩ Mạnh Quỳnh,
"Trẻ con hát, trẻ con chơi" (1943), "Truyện trẻ con của Perrault"
(1943), "Những kẻ khốn nạn" (1925-1928), "Kim Vân Kiều", 2 tập,
dịch sang tiếng Pháp (1942-1943)...
Nếu như mảng sách xưa trong bộ sưu tập của H.M có thể làm người ta ngưỡng
mộ bởi tính độc đáo thì mảng sưu tập từ điển của anh có thể khiến những người
ham mê sách xưa bị “choáng” bởi độ “khủng” của chúng! Trong số này phải kể đến
bộ "Từ điển Annam-Latin và Latin-Annam" (Nam Việt Dương Hiệp tự vị) của
giáo sĩ Taberd xuất bản năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ.
Đây là lần đầu tiên chữ quốc ngữ đối chiếu với chữ Nôm được in trong một
cuốn từ điển. Năm 1912, viện Hàn lâm khoa học Pháp đã chính thức xác nhận, chữ
quốc ngữ hiện dùng ở Đông Dương thuộc Pháp, trải từ thời Alexandre de Rhodes, đã
được cải tiến chủ yếu nhờ công của Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc) mà phần lớn
công trình cải cách này đã lưu dấu trong từ điển của Taberd. Bộ từ điển 2 tập
này thoạt tiên thuộc sở hữu của một bạn cũng chơi sách cổ ngoài Hà Nội, từng
đoạt giải Nhất thể loại Bộ sách trong cuộc thi Những cuốn sách vàng lần thứ Nhất
tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2002. Sau anh bạn kia chuyển sang “môn” khác nên
bộ từ điển đã về tay H.M. Âu cũng là “châu về hợp phố”!
Nếu nói đến từ điển thì hẳn là tay chơi nào cũng đều biết đến một cuốn từ
điển cực hiếm, có tuổi đã mấy trăm năm: "Từ điển Việt-Bồ-La" do giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (1591-1660) soạn và in tại Rome năm 1651. Đây chính là cuốn
từ điển đặt nền móng cho sự ra đời của chữ quốc ngữ và không chỉ ở Việt Nam mà
ngay cả trên thế giới cũng vô cùng hiếm. Vậy mà một tay chơi sách ở Sài thành
cũng có (ngoài một bản lưu tại Thư viện tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh).
Theo
lời đồn (trong giới chơi sách luôn có vô số các tin đồn!) thì tay chơi sách này
đã mua cuốn từ điển quý giá của một người ở Đà Lạt, nhưng do những lý do tế nhị
nên không (hoặc chưa) muốn lộ danh tính của mình cho mọi người biết!
Thủ bút, chữ ký, bản đặc biệt..., đủ cả!
Một tay chơi khác ở Sài thành, tuổi còn trẻ nhưng cũng đã có danh là
V.H.T, làm nghề kiến trúc. V.H.T có ưu thế là thừa hưởng được một tủ sách của
gia đình, nhưng bản thân anh cũng là người chơi sách có gu và biết bổ sung vào
kho sách của mình thêm dày dặn! Điểm khiến giới chơi sách “kinh hãi” nhất là
trong bộ sưu tập của V.H.T có nhiều cuốn sách cổ mà vẫn mới tinh như đi thẳng từ
nhà in về tủ sách nhà anh! Điểm đặc biệt thứ hai là V.H.T sở hữu nhiều cuốn sách
thuộc ấn bản đặc biệt (có lẽ nhiều nhất ở Việt Nam?), nhiều ấn bản kèm theo thủ
bút và chữ ký của tác giả!
Có thể thấy ở đây "Tục ngữ phong dao" của Nguyễn Văn Ngọc, Vĩnh
Hưng Long Thư Quán - Hà Nội xuất bản lần thứ nhất vào năm 1928; "Chương Dân
thi thoại" của Phan Khôi, Đắc Lập-Huế xuất bản lần đầu năm 1936; "Nét mực
tình" của Dương Bá Trạc, nhà Éditions DongTay - Hà Nội xuất bản năm 1937;
"Hồng Kiều" của Phan Mạnh Danh, Phan Phong Linh xuất bản năm 1943 tại Nam
Định; "Việt Nam cổ văn học sử" của Nguyễn Đổng Chi, Hàn Thuyên Xuất bản
cục in và xuất bản năm 1942, Trần Văn Giáp đề tựa, Huỳnh Thúc Kháng đề lời bạt,
họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung trình bày bìa; "Kim Vân Kiều truyện" do Trương Vĩnh
Ký dịch sang chữ quốc ngữ, bản in lần thứ ba năm 1911 tại Sài Gòn, do Imprimerie
F.H.Schneider xuất bản...
Về chữ ký cùng thủ bút thì góp mặt trong bộ sưu tập của V.H.T có những tên
tuổi tài danh như Vũ Hoàng Chương, Lê Mạnh Liêu, René Crayssac (người dịch
"Kim Vân Kiều" sang tiếng Pháp), Bùi Giáng, Nguyễn Hữu Hiệu, Tương Phố, Lãng
Nhân, Diên Hương, Quách Tấn, Trần Văn Khê... Quả thật là để có một bộ sưu tập
như thế, cộng với duyên may, phải hơn một đời người may ra mới có được.
Một tay chơi sách có danh khác cũng ở Thành phố Hồ Chí Minh là P.G.Đ, làm việc cho một
công ty kinh doanh dây cáp. Đ. tính tình điềm đạm, chơi sách khá kỹ. Đ. đặc biệt
chăm chú chơi những cuốn từ điển có giá trị, như "Giản Yếu Hán Việt Từ Điển" của
Vệ Thạch, Đào Duy Anh, in lần đầu năm 1932 ở Tiếng Dân (Huế) và Lê Văn Tân (Hà
Nội), từ điển của Lê Ngọc Trụ, Diên Hương, sách triết của Phạm Công Thiện, thơ,
dịch, triết của Bùi Giáng...
Nói các tay chơi sách sừng sỏ tập trung ở phương Nam (chưa kể Nha Trang,
Đà Nẵng cũng có một vài cao thủ) không có nghĩa là phía Bắc không có cao thủ!
Một số tay chơi sách như P. ở Hà Nội làm trong ngành du lịch, B. làm ngành in,
C. ở Bắc Ninh làm trong lĩnh vực xây dựng…, cũng có lượng sách xưa khá phong
phú.
Ngoài lượng sách xưa đổ ra từ nguồn phía Nam (do đó cũng góp phần đẩy giá
sách xưa trên thị trường lên với tốc độ... rocket!), các tay chơi sách phía Bắc
còn có những mảng sách mà các tay chơi sách xưa phía Nam ít có (do chưa quan tâm
hoặc cũng không có điều kiện sưu tập). Đó là mảng sách của các nhà xuất bản phía
Bắc phát hành quãng sau năm 1954 đến đầu những năm 1970. Mảng sách này phản ánh
đời sống văn hóa xã hội miền Bắc trong một thời kỳ đầy biến động, rất đáng để
các nhà sưu tầm sách cũng như nghiên cứu sau này quan tâm.
Tuy nhiên, cũng như đặc điểm chung của giới chơi sách xưa thường ngại
ngùng (do khiêm tốn?) không muốn lộ danh tính nên nhiều khi, danh tiếng của các
tay chơi sách xưa phía Bắc thường chỉ luẩn quẩn trong giới chơi sách mà thôi.
Phần việc còn lại thuộc về hệ thống các... tin đồn!
Những người chơi sách xưa - những người "muôn năm cũ" - vẫn còn đây, để bảo
tồn những giá trị và cái đẹp trường tồn của sách!/.
(TT&VH/Vietnam+)