03/07/2010
|
14:46:00
Phan Huy Lê - Người nặng lòng với dấu tích Thăng Long
|
Giáo sư Phan Huy Lê. (Nguồn: TT&VH) |
Nhiều năm qua Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã có tiếng nói quan trọng xác định
giá trị lịch sử-văn hóa để lập hồ sơ công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di tích
đặc biệt cấp quốc gia và phát triển thành hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di sản
văn hóa thế giới.
Người “đứng mũi chịu sào” đưa ra những kiến nghị đầy tinh thần trách nhiệm, khoa
học và đau đáu nỗi lòng với những di sản văn hóa Thăng Long-Hà Nội là giáo sư
Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (các khóa 2, 3, 4 và 5 từ
năm 1990 đến nay).
Cuốn “quốc sử” ở khu di tích Hoàng thành-Thành cổ
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 được ghi dấu ấn bằng việc phát hiện hàng loạt di
tích lịch sử-văn hóa về kinh thành Thăng Long cổ xưa. Đó là những di sản văn hóa
vô giá mà bao nhiêu thế hệ tổ tiên đã sáng tạo nên và lòng đất này đã gìn giữ
cho đến hôm nay, vì thế việc tiếp tục bảo tồn, phát huy rồi chuyển giao lại cho
các thế hệ mai sau phải được thế hệ hôm nay thực hiện với một ý thức trách nhiệm
cao nhất.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê sinh ngày 23/2/934 tại xã Thạch Châu,
huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ của Thượng thư, nhà ngoại giao Phan
Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, Thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh. Thân
sinh Phan Huy Tùng (1878- ?) (đỗ Hội nguyên và Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý
Sửu - năm 1913), Lang trung Bộ Hình triều Nguyễn. Mẹ ông là người dòng họ Cao
Xuân giàu truyền thống khoa bảng với các danh nhân Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu,
Cao Xuân Huy.
Năm 1956, sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại làm trợ lý tập sự tại Khoa Lịch
sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, dưới sự dẫn dắt của vị giáo sư nổi tiếng Đào
Duy Anh. Chỉ hai năm sau, thầy giáo trẻ Phan Huy Lê đã được giao nhiệm vụ làm
Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Việt Nam Cổ - Trung đại và liên tục giữ trọng trách này
hàng chục năm liền. Có thể nói cuộc đời của giáo sư Phan Huy Lê gắn liền với Hà
Nội, không chỉ vì đây là nơi ông đã sống mà còn vì ông đã gửi gắm tình yêu và
cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp nghiên cứu và bảo vệ di sản lịch sử-văn hóa
Thăng Long-Hà Nội.
Nghiên cứu dấu tích vùng đất Hà Nội-Hoàng Thành Thăng Long trong tương quan với
các kinh đô cổ, giáo sư Phan Huy Lê đã nhận định: Việc phát hiện di chỉ 18 Hoàng
Diệu đã đủ chứng tỏ những giá trị vô giá của kinh thành Thăng Long từ nghìn năm
trước còn lại trong lòng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhờ sự bảo tồn của
lòng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ còn nhiều cơ hội nghiên cứu và tìm
hiểu lịch sử.
Giá trị của khu di tích Hoàng thành Thăng Long (được phát lộ năm 2003) đã được
các nhà khoa học trong nước cũng như các chuyên gia quốc tế, kể cả tổng giám đốc
UNESCO đánh giá rất cao, hoàn toàn xứng đáng để được công nhận là di sản văn hóa
nhân loại.
Mỗi cố đô có một hệ giá trị riêng mà chỉ mình nó có, việc so sánh Hoàng thành
Thăng Long với các cố đô Cổ Loa, Hoa Lư và Huế chỉ nhằm khẳng định thêm những
giá trị cực kỳ quý hiếm của di chỉ Hoàng Thành, cố đô Thăng Long 1000 năm văn
hiến.
Theo giáo sư Phan Huy Lê, nếu coi đường Hoàng Diệu như gáy một cuốn quốc sử thì
trục Thần đạo với các công trình kiến trúc nổi giống như trang bìa cứng bằng
vàng, còn khu 18 Hoàng Diệu như những trang sách được mở ra với rất nhiều thông
tin chính xác, đặc biệt quan trọng mà chúng ta chưa đủ sức hiểu ngay hết giá trị
của chúng.
Nhắc đến Hoàng thành Thăng Long là nhắc đến tính liên tục của các lớp văn hóa Lý-Trần-Lê được giấu kỹ dưới lòng đất, mà nếu không có cuộc khai quật bất ngờ
năm 2003 tại số 18 Hoàng Diệu thì vẫn là bí mật, vẫn chỉ là những lời văn trong
sử liệu, qua những bản đồ khá sơ lược. Đây là “bộ sử bằng di vật” của kinh thành
Thăng Long, để từ đó ta hiểu được rất nhiều về kiến trúc, về bản sắc văn hóa, về
sự kết hợp thiên nhiên (thích nghi và tận dụng), kết hợp triệt để giao thông
đường thủy, xử lý không gian…
Di tích 18 Hoàng Diệu đã đủ chứng tỏ những giá trị
vô giá của kinh thành Thăng Long từ nghìn năm trước còn lại trong lòng đất, nhờ
vị trí của Cấm Thành không thay đổi qua các triều đại, vì thế dù là “phế tích”
nhưng giá trị còn rất rõ, các chuyên gia quốc tế quý Hoàng Thành Thăng Long bởi
qua bề dày cả ngàn năm mà còn bảo tồn được như vậy là rất hiếm.
Trong lịch sử
thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều
thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng Thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm
Thành (còn gọi là Cung thành) thì gần như không thay đổi, chỉ có kiến trúc bên
trong thì dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích
tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật
chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử.
Gần đây, việc phát hiện di vật khảo cổ của đoạn thành cổ trong khi thi công
đường Hoàng Hoa Thám, một lần nữa giáo sư Phan Huy Lê cùng các nhà khảo cổ học,
sử học lên tiếng đưa ra giải pháp để có thể nghiên cứu di tích thu thập di vật
thời Lý, Trần, Lê… Theo tư liệu lịch sử, đây là đoạn thành cổ còn lại duy nhất
phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử nhiều mặt của Thăng Long-Hà Nội.
Một trong “tứ trụ” của sử học hiện đại Việt Nam
Cùng với hoạt động nghiên cứu, giáo sư, nhà giáo
nhân dân, nhà sử học Phan Huy
Lê còn dành tâm huyết nghề nghiệp của mình truyền lại cho các thế hệ sinh viên.
Ông một trong “tứ trụ” của nền sử học hiện đại Việt Nam như cách vinh danh của
nhiều thế hệ học trò gồm “Lâm-Lê-Tấn-Vượng” (các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan
Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng).
Những ai đã từng được nghe ông giảng thì
không chỉ “tâm phục khẩu phục" về kiến thức, tri thức sâu rộng, khúc triết,
giọng nói trầm ấm, biểu cảm, mà còn thấy ở ông là một phong cách, một thế ứng xử
đầy minh triết, một nhân cách khoa học toàn vẹn. Ông thường gắn kết những bài
giảng của mình với các triết lý nhân văn, thể hiện tinh thần làm việc hăng say,
hết mình cho sự thật và niềm đam mê.
Những thế hệ học trò khoa Lịch Sử Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội được ông và đồng nghiệp đào tạo nay có nhiều người giữ
những trọng trách trong các trường đại học, các Viện Nghiên cứu, những cơ quan
quản lý nhà nước ở Hà Nội và nhiều nơi khác.
Ông được Nhà nước phong hàm giáo sư
đợt đầu tiên (năm 1980); danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (năm 1994); giải thưởng nhà
nước (năm 2000). Ông là người Việt Nam đầu tiên được Nhật Bản trao tặng Giải
thưởng quốc tế văn hóa châu Á Fukuoka (năm 1996). Và năm 2002, ông được Chính
phủ Pháp trao tặng Huân chương Cành cọ Hàn lâm./.
Song Quyên (TT&VH/Vietnam+)