05/03/2010 | 10:22:00

Thần Long Đỗ - Thành hoàng của Thăng Long

Đền Bạch Mã thờ “Long Đỗ thần quân quảng lợi Bạch Mã đại vương”. (Ảnh: Internet)

Tại số nhà 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm có ngôi đền Bạch Mã thờ “Long Đỗ thần quân quảng lợi Bạch Mã đại vương”.

Đây được coi là một trong “Thăng Long tứ trấn” của kinh đô thời xưa, đền trấn phía đông kinh thành.

Sách Việt điện u linh chép: “Khi xưa, Cao Biền sang ta đắp thành Đại La. Một buổi trưa, đi chơi vơ vẩn ra cửa đông ngoài thành, bỗng thấy mây mù nổi to, rồi có năm sắc rực rỡ bốc từ mặt đất lên tới trên không tụ lại, dưới làn mây năm sắc khí trời trở nên lạnh lẽo.

Trông trong làn mây thấy một người cưỡi rồng vàng, đầu đội mũ hoa, mình mặc áo tía, xiêm thêu, giầy đỏ, đồng thời thấy mùi hương ngào ngạt, tiếng nhạc vang lừng một hồi lâu mới tan. Cao Biền kinh hãi, cho là yêu quái".

Đêm hôm ấy, Biền mộng thấy một ông hình dạng ăn mặc như lúc thấy ban ngày, đến bảo Biền rằng: “Tôi là Long Đỗ vương khí quân, thấy ông mở dựng đô thành, nên tôi lại chơi, ông đừng ngờ!”.

Biền tỉnh dậy, nói chuyện với mọi người rồi than rằng: “Ta không biết làm chính trị, để quỷ thần trêu ta, điềm tốt hay điềm gở đây?”. Có người bảo Biền dựng đền, đắp tượng thờ, rồi lấy đồng, sắt chôn xuống để trấn áp.

Biền theo lời làm như thế. Bỗng một cơn bão rất to, đổ cây, tung đất, bao nhiêu đồng sắt yểm đều tan ra tro bụi, Biền thấy vậy, than rằng: “Ta sẽ phải về Bắc mất!” Quả nhiên Biền phải về thật".

Đến đời nhà Lý, dựng đô ở đây, thần Long Đỗ được suy tôn “Quốc đô định bang thành hoàng đại vương”, tức thành hoàng của cả kinh thành Thăng Long.

Tương truyền, khi Lý Thái Tổ đắp thành, thành cứ đổ, nhà vua phải cử người tới đền cầu thần. Một con ngựa trắng từ đền đi ra, đi theo hướng tây, vòng về hướng đông, trở về điểm xuất phát, rồi biến vào đền.

Nhà vua cứ theo vết chân ngựa để lại mà cho đắp thành. Nhờ đó mà thành công.

Đến đời Lý Thái Tông, nhà vua cho mở phố chợ về Cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát tới bên đền, rất huyên náo.

Vua muốn dựng đền ra một chỗ khác song lại nghĩ rằng một ngôi đền cổ không nên dời đi, bèn sửa sang lại đền liền với các nhà ngoài phố, riêng để một ngôi nhà bên trong làm nơi thờ thần. Đêm đến, thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ, duy chỉ đền thờ thần là nguyên vẹn.

Vua Thái Tông lấy làm lạ hỏi, có người biết, tâu rõ việc hiển linh của thần từ trước. Vua mừng nói: “Đó thật là vị thần coi việc nhân gian.”

Sau đó, đức vua xuống chiếu cho sửa lễ tế đền và đặt lệ mỗi năm cứ đầu mùa xuân lại đến làm lễ cầu phúc. Ông cũng sắc phong thần là Quảng Lợi vương.

Trước đây, ở phố chợ Cửa Đông, ba lần phát hỏa, các nhà trong phố bị cháy hầu hết, duy đền thờ thần thì  lửa không bao giờ lan tới.

Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải có đề một bài thơ ở đền:

Tích văn nhân đạo đại vương linh

Kim nhật phương tri quỉ mị kinh

Hỏa bác tam khu thiêu bất tận

Phong trần nhất trận phiến nan khuynh.

Chỉ huy vọng lượng tam thiên chúng

Đàn áp yêu ma bách vạn binh

Nguyện trượng dư uy thanh bắc khấu

Đốn linh vũ trụ lạc thăng bình

Trần Lê Văn dịch là:

Đại vương xưa nức tiếng oai linh

Nay mới hay rằng ma quỷ kinh

Lửa tụ ba khu không cháy miếu

Gió lay một trận chẳng nghiêng mình

Khiến sai bọn quỷ ba nghìn đứa

Đánh dẹp loài ma trăm vạn binh

Nhờ cậy dư uy trừ giặc Bắc

Giúp ngay đất nước được thanh bình

Vào thế kỷ XVIII, Đình nguyên Hoàng giáp Trần Bá Lãm (1757 - 1815), cũng có thơ đề ở đền:

Mạch dẫn bàn long truyền thắng địa,

Tích lưu bạch mã trấn danh châu

Cao vương vãng sự câu thần thổ

Vật hoán tinh di kỷ độ thu

Dịch:

Mạch dẫn rồng nằm kia đất hẹp

Dấu xưa ngựa trắng giữ danh đô.

Cao vương vật cũ không đâu thế,

Vật đổi sao dời độ mấy thu

Trong đền còn một đôi câu đối khá tiêu biểu ghi nhớ công ơn của vị thần:

Phù quốc lộ ư La Thành, vạn cổ uy thanh truyền mã tích

Ngật tôn từ vu giang tứ, thiên thu vượng khí trấn Long Biên.

Dịch là:

Giúp nước thịnh ở La Thành, muôn thuở uy danh truyền dấu ngựa.

Bên sông nước, nghìn năm vượng khí giữ Long Biên.

Trải qua bao biến thiên nhưng đền thờ "Long Đỗ thần quân quảng lợi Bạch Mã đại vương" vẫn nguy nga, tiếng anh linh còn mãi./.

Danh nhân Hà Nội/Vietnam+

Bản để in Lưu vào bookmark