12/03/2010
|
18:53:00
Thư Hà Nội - ký ức Hà Nội của một người ngoại quốc
|
Nhà hát xưa tại Hà Nội. (Ảnh: TT&VH) |
Tháng Giêng năm 1928, tại Hà Nội, một thanh niên người Pháp bắt đầu viết một lá
thư dài gửi Regoer Martin du Gard, nhà văn lớn của nước Pháp (người đã được trao
giải Nobel văn chương năm 1937 với bộ trường thiên tiểu thuyết "Les Thibault").
Một bức Thư Hà Nội. Một bài thơ về Hà Nội. Một ký ức Hà Nội của một người
ngoại quốc có thể khiến những người Hà Nội gần một thế kỷ sau đọc lại còn thấy
rưng rưng.
Thời gian 18 tháng sống ở Hà Nội (1927-1928) đã trở thành một bước ngoặt
lớn trong toàn bộ quá trình hình thành con người nghệ thuật ở người thanh niên
ấy - Jean Tardieu, mà sau này trở thành một tên tuổi của nền thơ ca và kịch nghệ
Pháp.
Jean cũng chính là con trai của Victor Tardieu, vị hiệu trưởng đầu tiên
của ngôi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nơi đào tạo những thế hệ họa sĩ
hàng đầu của lịch sử mỹ thuật Việt Nam, một người đã chọn Hà Nội để đến, để vẽ
và để chết!
Năm 2000, năm năm sau ngày Jean Tardieu mất, "Thư Hà Nội" được xuất
bản lần đầu tiên bằng tiếng Việt (Nhà xuất bản Phụ nữ). Ngài Tham tán hợp tác và
hoạt động văn hóa thuộc Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội lúc bấy giờ đã gọi đây là
một “cuốn sách lớn.”
Và nói như nhà văn Hoàng Ngọc Biên, dù Jean Tardieu đối với chúng ta vẫn
là một “người ngoài,” nhưng cái chút ít “người ngoài” ấy viết về những chiều dạo
chơi trên sông Hồng, buổi sáng Chủ nhật cùng họa sĩ Lê Phổ ngồi chuyện trò về
nghệ thuật trong sân một ngôi chùa cổ ở đồng quê, hay buổi hoàng hôn đứng trên
cầu Doumer (cầu Long Biên) nhìn ra chân trời xa, cái chút ít ấy sẽ còn lại trong
ký ức của ta như một ngụm trà uống vào một buổi chiều mưa trở về nhà, trong
nhiều kỷ niệm-và trong thời gian”...
Dưới đây chúng tôi xin trích đăng một số đoạn của "Thư Hà Nội" (bản
dịch của Đặng Thị Hạnh, Nhà xuất bản Phụ nữ, 2000) với những góc nhìn của một
người Pháp về Hà Nội của gần 80 năm về trước.
Ngày 23 tháng Giêng
... Chưa bao giờ tôi cảm thấy thất thường như từ khi tôi đến “định cư” một
thời gian ở Hà Nội. Điều này chắc do khí hậu: tôi thấy dường như ở xứ này, hơn
bất cứ ở nơi nào khác, con người trực tiếp lệ thuộc vào quyền lực độc đoán và
đỏng đảnh của các yếu tố thời tiết.
Về phần tôi, chưa có ngày nào mà trạng thái tinh thần và thể chất của tôi
lại chẳng trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp: từ mệt mỏi tới sảng khoái, từ thoải
mái thanh thản đến một sự khó chịu bí ẩn, từ niềm vui trọn vẹn tới tuyệt vọng.
Ở xứ Bắc kỳ này người ta có cảm tưởng rất rõ về một thiên nhiên không phân
hóa, hoặc chưa phân hóa. Không có phân biệt giữa các mùa, không có giới hạn
chính xác giữa mùa này và mùa khác, từ ngày này sang ngày sau, khí hậu chênh từ
10 đến 15 độ; cách đây ít hôm là rét thực sự, buổi sáng đi từ nhà, trang bị áo
len, cuộn kín trong áo capot da, tôi có thể tưởng mình đang ở Paris tháng mười
hai, cũng ánh nắng nhạt và vui, trời một màu xanh - xám tuyệt đẹp, tiếng động
đanh đanh của đường phố, cảm giác nhẹ bỗng.
Và đột nhiên, ngày hôm sau, nóng như mùa hè Pháp - trời đầy giông tố, màu
xám chì, màu phơn phớt bóng bẩy của các đám mây. Và thời tiết cứ thay đổi vậy
ngày lại ngày, với một sự sáng tạo phong phú không sao kể xiết, hết thảy sắc
màu, màu nọ kế tiếp màu kia...
Không biết bao điều bất ngờ ngộ nghĩnh dành cho người khách du hành mới
đến, một nông dân ngồi câu bằng cần câu bên ruộng của mình, nếu cây lúa đã cao,
người ta không nhìn thấy nước và không hiểu ra sao nữa!
Trên mười thửa ruộng cạnh nhau, có một thửa người ta đang gieo hạt, một
thửa nữa người ta đang cấy mạ, những thửa khác mỗi thửa lại ở một độ sinh trưởng
khác nhau và ở thửa cuối cùng người ta đang gặt!...
Toàn bộ thiên nhiên do vậy như giục những khách lạ, những người không
thích nghi, sống ngày qua ngày và trong một trạng thái thường xuyên chuyện nọ xọ
chuyện kia. Bởi ở cái thế giới kỳ cục này, cảm giác khó ở cũng như sảng khoái có
một cường độ gấp ba bốn lần so với khi người ta ở xứ ôn đới.
Ngày 30 tháng Giêng
... Buổi chiều trước khi mặt trời lặn ít lâu, tôi thường đi dạo ven sông,
trên con đê cao bằng đất mà những người Bắc kỳ cứ kiên nhẫn từng sọt, từng sọt
một, mỗi năm lại tôn cao lên để bảo vệ thành phố khỏi những cơn lụt ghê gớm mùa
xuân.
Phía trong con đê này, ngay trên nền đã khô của con sông, có một mô đất
cao, gần như một đồi nhỏ, chắc là một con đê cũ, dưới chân con đê này cuối cùng
ta mới thấy dòng sông; đến đây nó vòng lại và làm thành một vịnh nhỏ, ngay lúc
nước rút, vẫn giống như một eo biển.
Từ mũi đất nhỏ của tôi, tôi nhìn thấy dưới chân nhưng thuyền đánh cá, xa
hơn, những ghe có mái chèo đi qua hoặc những thuyền buồm trở về bến. Phía bên
kia con sông cứ dâng lên, dâng lên dường như cao hơn cả chân trời. Cuối cùng,
một nét mảnh màu xám ở xa như chỉ ra một bến bờ thấp thoáng.
Trong tất cả không gian ấy, không một sắc màu rực rỡ, không hề có một màu
đỏ thực sự, màu lục hoặc màu vàng gắt như người ta thấy ở Ấn Độ. Một hòa hợp sắc
màu tráng lệ, màu xám-nâu. Đủ mọi thang của màu xám và màu hạt dẻ, ở đấy các màu
sắc chỉ kín đáo hòa lẫn, để khiến cho bùn đất cất lên một khúc ca đơn điệu u
buồn, cực kỳ tinh vi và sâu kín...
Dân chúng do một linh cảm đầy yêu thương đối với phong cảnh của mình, mặc
những bộ quần áo có màu hòa hợp với bối cảnh: đó chỉ là những áo dài vải thô,
những quần áo rách rưới một màu đỏ gạch đã phai.
Dưới chân tôi những khối nâu đó đang cử động trên những chiếc thuyền mành
bằng gỗ tốt màu đen hoặc màu gụ, chiếc cầu tre nhỏ cong xuống dưới sức nặng một
người phụ nữ đang đi qua. Cô in hình rõ hơn trên những tia phản chiếu một màu
vàng óng đã xỉn của mặt nước: quần rộng, áo dài màu đất vạt bay phấp phới, một
chiếc khăn buộc quanh má. Đội trên đầu một sọt đất hoặc than bùn, cô đi qua với
dáng điệu kiểu Gauguin.
Ngày 2 tháng Ba
... Cứ như vậy tôi đi cho tới tận “Cầu Doumer,” cái cầu duy nhất nối Hà
Nội với bờ bên kia con sông. Phải nói rằng chiếc cầu này là một trong những công
trình lớn nhất mà các kỹ sư của chúng ta đã hoàn thành ở đây: đó là một cái cầu
bằng sắt dài hơn một kilomet rưỡi với những vòm chống rất lớn, ở giữa eo là một
đường xe lửa và mỗi bên có một đường cho xe ôtô và vỉa hè cho người đi bộ.
Từ rất xa phía trên nông thôn bằng phẳng, người ta đã thấy cuộn ra những
đốt vòng của con rắn lớn mênh mông này, nhẹ nhõm, duyên dáng và mạnh mẽ, qua
những cột cao, nó để lộ một chân trời... Trên phương diện là một công trình bằng
sắt, đó là cái tôi đã được thấy quan trọng nhất sau tháp Eiffel.
Ngày hôm qua đứng giữa cây cầu sau lúc hoàng hôn, khi một ánh sáng nhợt
nhạt mượt mà còn hòa lẫn với bóng tối đang lan rộng, tôi đã ngắm rất lâu các
khoảng không kỳ diệu ấy, lòng sông, đồng bằng rộng vô tận.
Cho tới nay, kể cả
chân trời đại dương cũng chưa bao giờ cho tôi cảm giác về không gian đến như
vậy, không gian ở trạng thái thuần khiết...
(TT&VH/Vietnam+)