25/02/2012
|
10:32:00
Xây dựng cách tiếp cận chiến lược văn hóa Hà Nội
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã đặt mục tiêu đưa nước
ta (về cơ bản) thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khoảng 2
thập kỷ tới. Coi văn hóa là nguồn lực, là mục tiêu và động lực phát triển của xã
hội, Đảng ta đã có những điều chỉnh về chính sách đối với văn hóa và trên thực
tế, văn hóa đã được đầu tư nhiều hơn cả về cơ chế, kinh phí và ở từng lĩnh vực
một đã hình thành cả một hệ thống chế độ, quy định bài bản hơn, vừa thể hiện tầm
chiến lược trong cách đặt vấn đề, vừa có cách thức tổ chức thực hiện hiệu quả
hơn. Đó là một thành tựu không nhỏ và là một thực tế không thể phủ nhận.
Bài viết này muốn đề cập về cách tiếp cận chiến lược văn hóa cho Hà Nội, để khi
đề ra các chính sách, các quy định không bị sa vào tình trạng manh mún, bị ngợp
trong những vụ việc cụ thể, chỉ lo đối phó với từng vấn đề phát sinh, chạy theo
từng vụ việc mà không thể chủ động dự báo những xu hướng, những vấn đề sẽ nảy
sinh để chủ động tổ chức lãnh đạo và quản lý nó tốt hơn. Đó là cách tiếp cận đối
tượng theo hệ thống, theo đặc trưng và trong sự vận động không ngừng của nó như
một hiện tượng xã hội.
1. Cần coi Hà Nội là một không gian văn hóa - lịch sử, không gian xã hội - chính
trị, không gian kinh tế... được hình thành trong quá trình biến đổi liên tục của
Hà Nội và cả nước. Vấn đề này không có gì mới vì đã được nhiều nhà văn hóa, khoa
học khẳng định; nhưng trong thực tế, khi hoạch định các chính sách xã hội, chưa
phải các cấp có trách nhiệm đã chú ý đúng mức đến nguyên tắc này. Không gian văn
hóa Hà Nội, xin được khẳng định là không phải chỉ của người Hà Nội (theo nghĩa
đen của từ này), không phải chỉ thuộc về Hà Nội, “nhất thành bất biến” mà “đặc
tính Hà Nội”, “chất Hà Nội” được hình thành trong suốt diễn trình của lịch sử,
trải qua hàng nghìn năm, liên tục biến đổi, tiếp biến và hình thành các nhân tố
mới trên cơ sở những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Ở đây yếu
tố con người giữ vai trò quan trọng nhất nhưng cũng không thể nhìn nhận con
người như một cái gì trừu tượng, mà phải là con người trong những quan hệ cụ
thể, có nguồn gốc tự nhiên và xã hội cụ thể, có truyền thống của gia đình, quê
hương, có đặc điểm giai cấp; đồng thời những yếu tố về môi trường sống và nhận
thức cá nhân cũng đặc biệt quan trọng. Lâu nay, chúng ta chỉ dựa vào luận điểm
của C.Mác khi nói về con người “là tổng hòa của toàn bộ các quan hệ xã hội”
nhưng lại không chú ý đúng mức đến “tính hiện thực”, “tính thực tiễn” trong các
hoạt động của con người và đặc biệt là dễ bỏ qua vai trò của các yếu tố cá nhân,
tự nhiên, cá tính, di truyền, bản năng của con người. Nói ngắn gọn là chúng ta
mới chỉ coi trọng vấn đề xã hội (mà cũng chú ý nhiều hơn, thậm chí thái quá) ý
nghĩa chính trị, khía cạnh chính trị của đối tượng hơn là khía cạnh kinh tế. Còn
khía cạnh bản năng, di truyền, cá tính, cá nhân, những nhu cầu tinh thần, những
yếu tố truyền thống (quê quán, gia đình, dòng họ, văn hóa vùng...) thì hầu như
rất ít được chú ý, thậm chí còn bị xem nhẹ. Hệ quả tất yếu của cách nhìn nhận
này là không hiểu đúng đối tượng. Và một khi đã hiểu sai đối tượng thì không thể
hy vọng những chính sách quản lý đối tượng, phục vụ đối tượng sẽ đạt được sự
đúng đắn cần thiết.
Theo thống kê của Văn phòng 1.000 năm Thăng Long thì số dân Hà Nội gốc chỉ còn
chiếm khoảng 7% dân số Hà Nội hiện nay và theo thông báo của một cơ quan có
trách nhiệm của Thành phố thì dân số Hà Nội tăng cơ học trong năm 2004 lên đến
con số chóng mặt”: 46%, mà tuyệt đại bộ phận là lao động đơn giản, mùa vụ. Như
vậy, mục tiêu của Chương trình Xây dựng người Hà Nội truyền thống, thanh lịch,
hiện đại sẽ phải dựa trên những cơ sở dân số nào? Từ nhiều đời nay, không gian
Hà Nội liên tục có sự mở rộng, tiếp nhận, giao thoa, phản ứng... trước các xu
hướng văn hóa khác nhau và cũng từ nhiều đời nay Hà Nội luôn được thừa nhận là
một trung tâm văn hóa của cả nước, là gương mặt văn hóa tiêu biểu ngay cả trong
những giai đoạn nó không còn là thủ đô, là trung tâm chính trị hay kinh tế của
cả nước. Vậy điều gì đã làm cho văn hóa Kinh kỳ được trân trọng và trở thành
“khuôn vàng thước ngọc” cho một lĩnh vực khá trừu tượng nhưng lại dễ cảm nhận
được đến như vậy? Chúng ta hay nói đến truyền thống - một thuật ngữ của văn hóa
học, một khái niệm mang tính ổn định, bền vững cao, nhưng về một phương diện
khác, khái niệm này cũng đồng nghĩa với sự ít biến đổi, trì trệ và trong diễn
trình lịch sử, một số nhân tố nào đó của khái niệm được giữ lại, được bổ sung,
được biến đổi đi ở một phương diện nào đó và trở thành những giá trị trong đời
sống. Xin nêu một ví dụ cụ thể: đất nước Việt Nam có 3 danh nhân văn hóa được
UNESCO công nhận là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh (tất nhiên theo quan
niệm của nhiều người thì con số đó có thể hơn). Cả 3 danh nhân đều không phải là
người Hà Nội gốc, nhưng cả 3 vị đều có một thời gian dài sống, làm việc và
“thành danh” ở vùng đất văn vật này. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh có một số nét
tương đồng ở chỗ, họ là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của thời đại, họ hấp
thụ được những gì gọi là tinh hoa nhất của nền văn hóa bản địa và văn hóa nhân
loại qua học vấn, qua sự từng trải, qua kinh nghiệm của cá nhân và tiếp nhận
được từ người khác. (Còn nhiều yếu tố khác nữa nhưng tôi tạm liệt kê ra một số
yếu tố mà theo thiển nghĩ là nổi trội hơn). Song, không thể không thừa nhận một
thực tế: những gì là “của họ” đã được cộng hưởng, thăng hoa lên do những năm
tháng sống và làm việc ở đất Kinh kỳ. Với Nguyễn Du có hơi khác một chút và khía
cạnh danh nhân văn hóa ở Nguyễn Du cũng khác nhưng cũng lại giống hai vị trên
là, ở ông dấu ấn của vùng Kinh kỳ cũng rất đậm nét. Vấn đề đặt ra ở đây là: nếu
các vị không ở Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội thì dấu ấn danh nhân văn hóa ở các
vị có khác đi không? Họ giữ lại những gì, tiếp thu những gì của văn hóa Kinh kỳ,
văn hóa Hà Nội? Các yếu tố văn hóa gia đình, quê quán, nội địa, quốc tế... được
phối hợp, giao thoa, cộng hưởng... với nhau thế nào để hình thành nên nhân cách
văn hóa ở họ? Nêu ra những điều đó là để đi đến một mệnh đề khác nữa là không
thể nói đến truyền thống văn hóa Hà Nội về mặt tổng thể hay văn hóa của một
người Hà Nội cụ thể (hiểu theo nghĩa người đó đã sống ở Hà Nội, “thành danh” ở
Hà Nội) lại chỉ từ những tiêu chí dành riêng cho người Hà Nội gốc, mà cần nhìn
nội hàm “văn hóa người Hà Nội” như một hệ thống mở, luôn hướng về những giá trị
tiêu biểu của thời đại ấy, của những thời đại trước đó và cả những yếu tố “thuộc
về nền văn hóa của tương tai” theo cách nói của Mandenstam về Hồ Chí Minh những
năm 20 của thế kỷ trước. Cách tiếp cận như vậy về nguyên tắc sẽ tránh được cái
nhìn chia cắt, cục bộ, chỉ thấy những hiện tượng cụ thể mà không thấy cái toàn
bộ; và tệ hại hơn là, không thể hình dung được toàn bộ những vấn đề đã và sẽ nảy
sinh từ trong hệ thống của chúng, nên mọi sự hoạch định các chính sách trong
trường hợp tốt nhất vẫn chỉ là sự thụ động, chạy theo giải quyết các hiện tượng
chứ không thể đưa ra được chính sách giải quyết các hiện tượng ấy cả ở phương
diện vĩ mô lẫn từng hiện tượng cụ thể; và nhất là, không thể dự báo được những
xu hướng phát triển của hiện tượng.
Giới khoa học đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng, mỗi khi những người
dân của một vùng nào di cư đến một vùng đất mới thì trong hành trang của họ bao
giờ cũng có những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa mà họ đã tích
lũy được. Những phẩm chất hoặc truyền thống ấy không mất đi đã đành, nhưng cũng
không hề tồn tại nguyên vẹn ở vùng đất mới mà nó sẽ dần thích nghi, chọn lọc,
bảo tồn, phát triển, thu nạp thêm những nhân tố mới ở vùng đất mới. Nói tóm lại
là có sự tiếp biến văn hóa. Do không đánh giá hết quá trình này mà có nhà khoa
học đã nhầm lẫn khi chỉ căn cứ vào những dấu tích có thật của một di tích mà đưa
ra những kết luận sai về mặt khoa học xung quanh một hiện tượng lịch sử. Người
dân đã “gánh quê hương đất nước” trên vai trong suốt quá trình di cư, khai khẩn,
mở quê hương mới theo cách nói đầy hình tượng của một nhà thơ. Còn nói như một
nhà khoa học thì quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa bao giờ cũng diễn ra
theo những quy luật của nó: vừa tự nguyện, vừa cưỡng bức, vừa dung hợp, vừa hình
thành những cái mới, vừa loại bỏ những cái không còn phù hợp và không phải mọi
sản phẩm của quá trình này đều được lưu giữ trong đời sống cộng đồng như những
giá trị.
Nhìn lại quá trình giao thoa văn hóa dân tộc trong khoảng hơn một thế kỷ trở lại
đây có thể thấy khá rõ tính chất hai mặt của quá trình này, thấy những bài học
thành công và thất bại của các chính sách văn hóa của Nhà nước ta, cũng như mặt
được và chưa được của “quá trình tự điều chỉnh” của xã hội (tự điều chỉnh không
chính thống của người dân, cộng đồng). Sự mất đi của yếu tố này một cách cưỡng
bức, việc hình thành tự phát hoặc có chuẩn bị của nhân tố kia, quá trình có tổ
chức, có lãnh đạo để làm nảy sinh những giá trị mới... trong đời sống xã hội,
luôn luôn là những thử thách cho những người lãnh đạo hoạch định đường lối văn
hóa.
Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng đã đưa ra ba nguyên tắc lớn của văn hóa Việt
Nam trong giai đoạn cách mạng bấy giờ là dân tộc, khoa học, đại chúng. Ba nguyên
tắc ấy đã trở thành đường lối lãnh đạo văn hóa Việt Nam trong nhiều thập kỷ và
cho đến nay nhiều nội dung của những nguyên tắc ấy vẫn còn giữ nguyên giá trị
khoa học; nhưng Đảng ta cũng đã có sự điều chỉnh về mặt sách lược, về mặt chủ
trương cho phù hợp với những yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Đó là biện
chứng, là phù hợp với quy luật vì văn hóa là một hiện tượng xã hội, nó hình
thành và tồn tại trong những không gian - thời gian cụ thể, nảy sinh trong những
điều kiện xã hội - kinh tế cụ thể. Không có thứ văn hóa chung chung, nhưng cũng
không thể không nhận thấy ý nghĩa trường tồn của những yếu tố, phẩm chất nào đó
của văn hóa.
2. Gần đây, báo chí công bố khá nhiều những dự kiến quy hoạch vùng Thủ đô trong
khoảng thời gian một, hai thập kỷ tới và một mệnh đề thường gặp là thủ đô Hà Nội
phải có quy mô xứng đáng với truyền thống 1.000 năm, với tầm vóc là Thủ đô của
một nước gần trăm triệu dân... Giới kinh tế thường nói đến chiến lược phát triển
kinh tế của Hà Nội phải đặt trong quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc,
với vùng kinh tế tam giác, vùng đồng bằng Bắc bộ... Như vậy, khái niệm vùng kinh
tế Thủ đô đã có biến đổi, không gian sống và không gian văn hóa Hà Nội đã có
những biến đổi, các điều kiện tạo ra những giá trị văn hóa của vùng Thủ đô trong
thời gian hiện tại và sắp tới sẽ có những biến đổi. Do đó, cách tiếp cận về văn
hóa Hà Nội trong giai đoạn tới cũng cần thay đổi để nhận đúng bản chất của nó.
Để có thể đáp ứng được yêu cầu mới này, mọi ngành đều xây dựng quy hoạch của
ngành. Văn hóa Hà Nội cũng không ngoài quỹ đạo đó. Đây là một việc rất lớn và
khó, nhưng quy hoạch rồi cũng sẽ được thông qua và chuyện làm quy hoạch vẫn cứ
là việc phải làm đi làm lại. Chúng ta thường nghe nói chất lượng quy hoạch thấp,
cho nên phải thường xuyên làm lại. Đó là một cái lý không phải không có cơ sở,
nhưng còn có một cái lý khác nữa là trước khi làm quy hoạch, các nhà quy hoạch
chưa có được một quan niệm nhất quán về một Hà Nội trong một, hai thập kỷ tới sẽ
phải như thế nào, không phải theo ý chí của người hoạch định mà đúng như nó sẽ
phải như vậy trên một cơ sở khoa học. Không gian địa lý của Hà Nội có thể thay
đổi, dân số Hà Nội cũng có thể thay đổi theo ý chí của người cầm quyền nhưng lời
giải cho bài toán này cần được xác định ở mục đích của sự hướng tới, ở hiệu quả
kinh tế, xã hội của câu trả lời, chứ không phải ở chỗ việc ấy có làm được hay
không. Một không gian văn hóa được hình thành trên ba yếu tố cơ bản là điều kiện
tự nhiên, con người và các quan hệ kinh tế hình thành trên cơ sở đó. Hà Nội, do
những điều kiện lịch sử của nó, như hiện trạng có lẽ cần phải được quy hoạch
theo hướng là một trung tâm chính trị, một trung tâm đầu não về văn hóa, ngoại
giao, dịch vụ ngân hàng, tiền tệ... xứng đáng là một Thủ đô văn hiến mà vẫn hiện
đại, hơn là một trung tâm về kinh tế theo quan niệm cũ. Cái tạo nên sự độc đáo
hiếm có của Hà Nội là sự cổ kính của khu phố cổ, của các di tích, danh thắng, là
truyền thống văn hóa Á Đông (không gian sông nước, sông hồ, cây xanh) trên cái
nền của một cơ sở hạ tầng hiện đại, được quản lý một cách tương xứng với nó.
Như chúng tôi đã nói ở trên, dân số Hà Nội tăng cơ học quá lớn mà cơ cấu của sự
tăng nhanh này không đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Hà Nội, hơn nữa lại
kéo theo nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết. Sự mở rộng của các khu công nghiệp,
khu dân cư, các quận, huyện mới, vừa tạo ra tiền đề cho sự phát triển của Hà Nội
trong tương tai, vừa làm nảy sinh những mặt trái của xã hội, mà lĩnh vực văn hóa
xã hội thường phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất. Nếu khi hoạch định các
chính sách kinh tế, xã hội mà không chú ý đúng mức tới khía cạnh văn hóa của
chính sách, hoặc “bỏ qua” những khía cạnh này thì việc giải quyết hậu quả của
cách làm ấy sẽ rất nặng nề. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một việc không
bình thường là, hầu như khi xây dựng những khu kinh tế mới, khu dân cư mới, do
quá chú trọng đến lợi ích kinh tế mà người ta thường xem nhẹ, hoặc không đánh
giá một cách nghiêm túc sự tác động của những dự án ấy đến vấn đề môi trường
sinh thái nhân văn, đến việc đảm bảo tối thiểu những yêu cầu về cơ sở văn hóa
như: câu lạc bộ, nhà văn hóa, khu vui chơi... thậm chí những cơ sở hạ tầng kỹ
thuật phục vụ dân sinh như trường học, bệnh viện, khách sạn, quảng trường, chợ,
khu thương mại... cũng còn bị lãng quên hoặc cắt xén đến mức tối đa. Còn khía
cạnh thẩm mỹ của các công trình kiến trúc, tính đồng bộ của cả hệ thống thì hiển
nhiên bị xem nhẹ. Quản lý nhà nước về văn hóa ở đây bị “buông” hoàn toàn. Rõ
ràng, các khu tập thể ở Kim Liên, Giảng Võ, Thành Công, các khu công nghiệp mới
ở Gia Lâm, Thanh Trì, Sóc Sơn,... đều rơi vào tình trạng như vậy.
3. Xung quanh vấn đề quy hoạch văn hóa của Hà Nội trong khoảng thời gian một,
hai thập kỷ tới thường gợi cho những người làm nghề băn khoăn; nhiều kế hoạch,
nhiều dự án được đưa ra nhưng vẫn không có sự nhất trí cao. Âu cũng là chuyện
thường tình bởi trước hết vấn đề vốn phức tạp; những dự báo được đưa ra nhiều
khi lại không dựa trên những cơ sở khoa học, mà thường là những dự đoán, mong
muốn của người hoạch định. Không ai không thừa nhận vai trò của văn hóa, nhưng
khi quy hoạch cho một ngành nào đó lại ít ai chú ý đến khía cạnh văn hóa của vấn
đề. Có thể lấy vấn đề quy hoạch hệ thống bảo tàng, di tích, danh thắng, tượng
đài, nhà văn hóa... ở Hà Nội làm ví dụ minh chứng cho luận điểm này: Trước đây
do những yêu cầu về đối ngoại, chính trị... chúng ta đã xây dựng một số tượng
đài của các danh nhân, các chính khách (cả trong nước và quốc tế), đã xếp hạng
nhiều di tích, đã xây dựng khá nhiều loại bảo tàng của quốc gia, của ngành, của
các tổ chức xã hội, chính trị khác nhau theo kiểu “ai làm cũng được, cái nào
cũng được, ai có điều kiện thì làm”... nghĩa là thiếu hẳn một căn cứ khoa học và
một kế hoạch tổng thể. Chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, chúng ta
đã xem lại vấn đề này và thấy để như hiện nay là không ổn. Vậy, dựng thêm những
tượng đài nào, ở đâu, xây thêm những bảo tàng nào, quy mô ra sao, xây thêm những
công trình văn hóa nào, bao nhiêu cho phù hợp... đều cần được bàn bạc, xem xét.
Tượng đài Lý Thái Tổ dựng ở một trong những chỗ trang trọng nhất của Thành phố,
với hình dáng, kích thước, chất liệu... như vậy được nhiều người đồng tình. Và
trên thực tế, hàng ngày có hàng trăm lượt người tới để dâng hương, tưởng niệm,
ngắm nhìn một địa chỉ văn hóa mới. Thế rồi, nảy sinh một vài ý kiến khác và báo
chí bắt đầu vào cuộc: Triều Lý đã có tượng vua Lý, vậy còn triều Trần thì sao?
Triều Trần với những võ công và những nhân vật kiệt xuất rất đáng xây dựng những
khu tưởng niệm quy mô lắm chứ. Thế là lại tổ chức hội thảo, lại công bố những
mong muốn, kiến nghị... và đôi khi vấn đề đã có hơi hướng vượt ra ngoài một
tượng đài, trở thành một yêu cầu cao hơn. Đành rằng, tất cả những ý kiến đó đều
đáng trân trọng, việc dựng bia, xây nhà tưởng niệm, đặt tượng đài... đều hợp lý
cả, nhưng nếu ta không có một cách tiếp cận vấn đề theo hệ thống sẽ không bao
giờ giải quyết được một cách khoa học những kiến nghị này. Bởi sau triều Trần sẽ
là triều Lê, sau nhân vật A, sẽ là nhân vật B., C., X., nào nữa? Vấn đề ở đây là
phải có những nguyên tắc về dựng tượng, đặt bia, xây nhà tưởng niệm trong một
quy hoạch tổng thể, nhất quán, phù hợp trong nhiều mối quan hệ... chứ không phải
là phải có ông này, bà kia... ở nơi này, nơi khác của Thủ đô thì mới xứng đáng
với tên tuổi hay công tích của họ.
Từ khi Bảo tàng Dân tộc học được xây dựng với quy mô, tầm vóc như ta đã thấy, Hà
Nội đã có thêm một địa điểm văn hóa sáng giá nữa. Trước khi xây dựng bảo tàng
này, khó ai có thể hình dung ra sự nhộn nhịp, hấp dẫn của nó như bây giờ. Cũng
chính vì vậy mà, quy mô của nó đã trở nên không đáp ứng được yêu cầu hiện nay
chứ chưa nói đến trong thời gian sắp tới. Do tính chất phức tạp của công việc đã
đành nhưng cũng còn do chưa lường trước được sự cần thiết và quy mô của nó, sự
hữu ích của nó, nên cả về tầm vóc lẫn quy mô bảo tàng đều bị thiếu hụt. Tôi còn
nhớ có một bài báo viết rất hay về “một góc Thái ở Hà Nội” và mơ ước đến những
góc khác nữa dành cho những dân tộc khác (nước ta có đến 54 dân tộc). Vấn đề mà
bài báo đặt ra rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Xét về nhiều phương diện, sự
góp mặt của mọi giá trị tinh thần của các dân tộc anh em ở Hà Nội là rất đúng
đắn và cần thiết, nhưng nếu cứ tư duy theo cách thấy điều gì hay, thấy cái gì
chưa có lại phải làm cho đủ, cho có mặt theo kiểu “ai cũng phải có phần” thì lại
rất không nên. Bởi vì cách tư duy ấy sẽ dẫn theo hệ quả là ta chỉ chạy theo sau
các sự việc và như thế sẽ không thể quản lý sự việc theo đúng cách cần quản lý.
Văn hóa của các dân tộc khác trong điều kiện ngày nay, đã ngày càng chứng tỏ sức
sống của nó và sẽ có những con đường đi của nó, và nhà cầm quyền chỉ có thể dự
báo sớm và chuẩn bị đón trước sự xuất hiện của nó để khi nó xuất hiện, không
thấy bất ngờ chứ không phải quay lưng lại với nó. Cách ứng xử với văn hóa đúng
hay sai sẽ được hưởng hay phải chịu hậu quả đều rất nặng nề và đều nhỡn tiền.
Câu châm ngôn của Nho giáo: nếu không lo cái lo xa sẽ phải đối mặt với cái khó
gần từ hàng nghìn năm trước vẫn mới vậy.
Những người làm nghề không ai không nhận thấy quy luật văn hóa là nguồn lực, là
động lực và là mục tiêu của sự phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta đang quy
hoạch các khu du lịch, kinh tế, văn hóa theo phương châm này. Nhưng, (vẫn là
chuyện chữ nhưng) những bài học thất bại về việc để các hoạt động du lịch khai
thác (chữ này theo tôi không đúng lắm) các điểm di tích, danh thắng ở trong và
ngoài Hà Nội như chùa Hương, vịnh Hạ Long, Huế, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Sa Pa...
đang gióng lên hồi chuông báo động. Nguyên lý không sai nhưng cách làm hiện nay
ở ta rất sai. Nói tóm lại, các hoạt động kinh tế này không làm cho các di tích,
danh thắng ấy được bảo tồn, quản lý tốt hơn mà trái lại, đang xâm hại chúng một
cách nguy hại vì, mục tiêu kinh tế đang khuyến khích nhà đầu tư cố gắng kiếm lợi
nhuận cao nhất, còn vấn đề di tích còn hay mất không phải là mối quan tâm hàng
đầu của họ. (Ai có việc của người ấy mà). Việc xâm hại di tích diễn ra hàng
ngày, không phải chỉ là chuyện của cá nhân mà còn chuyện của cả những tổ chức.
Vấn đề ở đây là chính sách, cơ chế đầu tư, cơ chế kết hợp giữa lợi ích kinh tế
với việc phát triển bền vững, với bảo tồn văn hóa; là việc giải bài toán về phát
triển bền vững và bảo tồn văn hóa của ta chưa được chú ý đúng mức, quy hoạch
vùng kinh tế, quy hoạch ngành cụ thể... đều không chú trọng đến khía cạnh văn
hóa cho dù khi nói ai cũng nói rất giỏi.
4. Xưa nay, vấn đề thiết chế văn hóa luôn được coi là một trong những tiêu chuẩn
quan trọng để đánh giá mức độ tiến bộ hay lạc hậu của một trình độ phát triển xã
hội. Thiết chế văn hóa hình thành vừa có yếu tố tự nhiên, vừa có yếu tố áp đặt.
Do những quan hệ của con người, mỗi cộng đồng bên cạnh những quy định bắt buộc,
những cơ sở được sự đầu tư của nhà nước... còn có những quan hệ hình thành do
những quy ước bất thành văn. Dư luận xã hội và những chuẩn mực bất thành văn xưa
nay cũng có áp lực ghê gớm đối với hành vi của con người, nhiều khi nó có tác
dụng hơn cả những quy định cụ thể. Nhưng mọi thiết chế đều được xây dựng trong
những hoàn cảnh cụ thể, hay nói cách khác nó phải có chỗ dựa từ những điều kiện
vật chất nào đó. Hiện Hà Nội đang có một cuộc vận động lớn về việc toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa, làm cơ sở cho một phong trào hình thành những
quan hệ mới giữa người với người, hướng tới mục tiêu xây dựng nếp văn hóa của
người Hà Nội. Không cần nói thêm về sự cần thiết của vấn đề này vì điều đó đã
quá rõ, mà cần bàn thêm về những cơ sở vật chất đảm bảo cho guồng máy ấy vận
hành, những phương thức vận động, những mục tiêu cụ thể, những cơ chế làm cơ sở
pháp lý cho cuộc vận động và những quy phạm văn hóa mà mọi người phải tuân theo.
Điều đáng nói ở đây là cuộc vận động vẫn đang hướng nhiều tới vai trò xã hội,
đến chức năng quản lý của các tổ chức khác nhau mà chưa chú ý đúng mức vai trò
của cơ sở vật chất, của cơ chế, của các yếu tố gia đình, gia phong, nếp nhà, đến
yêu cầu đạo lý của mỗi hành vi của cá nhân. Gia đình bao giờ cũng là tế bào của
xã hội; trách nhiệm của gia đình bao giờ cũng phải đặt ở một vị trí rất cao
trong quan hệ này. Phương châm nhà trường, xã hội và gia đình cùng tham gia giáo
dục các thành viên ở cả hai nơi rất đúng về hướng chỉ đạo, nhưng hiệu quả thấp
là do chúng ta chưa có cơ chế phối hợp đúng đắn, ngang tầm với vai trò của mỗi
tổ chức, gia đình. Thực ra, sự phân công xã hội trước mỗi hiện tượng không có gì
mới, nhưng hiệu quả của sự phân công lại là vấn đề muôn thuở phải tính đến.
Quyền hạn bao giờ cũng cần phải đi kèm với trách nhiệm và cần được giám sát một
cách nghiêm túc, theo pháp luật, nếu không sẽ làm mầm mống của những sai lầm.
Quản lý nhà nước cũng cần phải như vậy.
Xin được lấy thêm một vài ví dụ nữa về quản lý nhà nước về văn hóa và dịch vụ
văn hóa ở Hà Nội hiện nay. Theo báo cáo của thanh tra văn hóa thì gần như 100%
quảng cáo tấm lớn ở Hà Nội đều vi phạm quy định ở các mức độ khác nhau. Các cơ
quan chức năng hết sức vất vả mà không kiểm soát được. Bộ Văn hóa - Thông tin đã
có dự định cấm hoạt động karaoke do tính chất tiêu cực của các hoạt động này,
nhưng dư luận xã hội còn băn khoăn vì không đúng với xu thế “pháp trị”. Theo
tôi, cần xem xét sự vật ở khía cạnh nó là một sản phẩm của đời sống xã hội, nó
tồn tại dựa trên cái lý của sự vật và chúng ta cần hiểu đúng nó trước khi ra các
quyết định. Trước hết xin nói về chuyện quảng cáo. Cần phải coi quảng cáo như
một nhu cầu cần thiết của đời sống kinh tế. Cách quản lý nó hiệu quả nhất phải
dựa trên những tri thức về các quy luật kinh tế, các quan hệ xã hội, chứ không
thể căn cứ vào những ước đoán hay ý chí của một ai. Vì vậy, có lẽ nên tính đến
yêu cầu quy hoạch cho công việc này trên những tuyến đường, tuyến phố, những địa
điểm cần thiết và phù hợp với nguyện vọng của các doanh nghiệp, các công ty
quảng cáo. Nhà nước nên đầu tư cho hoạt động này rồi cho các doanh nghiệp, các
tổ chức và cá nhân cần quảng cáo thuê địa điểm quảng cáo và cơ quan có trách
nhiệm chỉ phải quản lý hoạt động này theo những quy định của pháp luật, theo cơ
chế quản lý nhà nước. Như vậy, cả ba khía cạnh nhà đầu tư, hệ thống pháp lý, cơ
quan quản lý đều được kiểm soát và chắc chắn những người hoạt động quảng cáo
không còn cơ sở nào để có thể vi phạm. Văn minh đô thị sẽ được đảm bảo, hoạt
động quảng cáo sẽ đi vào nền nếp hơn.
Tương tự, hoạt động của các vũ trường, nhà hàng, karaoke cũng cần được quản lý
theo nguyên tắc ứng xử với hoạt động quảng cáo. Tất nhiên vấn đề ở đây đòi hỏi
những quy định cụ thể khác, cách ứng xử khác, nhưng điều tôi muốn nói ở đây là
cách nhìn vấn đề nên dựa theo một hệ thống nhất quán; việc chọn cách ứng xử với
một hiện tượng nên bắt đầu từ những căn cứ xã hội, lịch sử, văn hóa của nó trong
đời sống, chứ không phải chỉ căn cứ vào bản thân nó. Bởi, trong thực tế, không
có một hiện tượng nào lại không có những mối liên hệ nhiều chiều với những hiện
tượng khác. Vấn đề tự nó vốn đơn giản, nhưng chúng ta lại không thể giản đơn khi
ứng xử với nó mà thôi.
Khi chúng ta có đủ kiến thức được xây dựng trên cơ sở khoa học về đối tượng thì
cách giải quyết vấn đề sẽ mạch lạc hơn ở sự lý giải. Điều quan trọng là những
chính sách được nêu ra sẽ có cơ sở về mặt lý thuyết, nó sẽ chỉ rõ được vì sao có
chính sách ấy, lộ trình để giải quyết các hiện tượng ấy sẽ đi theo những bước
nào. Nó sẽ giúp hạn chế đến mức tối đa sự rủi ro. Trong trường hợp thành công
thì sự thành công ấy đã được dự liệu từ trước chứ không phải là sự may rủi, còn
nếu thất bại thì cũng cắt nghĩa được nguyên nhân của thất bại là do đâu. Nói nôm
na là, một khi vấn đề được xem xét một cách hệ thống, thì mọi kết luận về nó sẽ
tránh được tình trạng ngẫu nhiên, cục bộ ở cả tầm vĩ mô và những sự việc cụ thể./.
(Thanglonghanoi/Vietnam+)