10/10/2020
|
10:24:00
Ý nghĩa những tên gọi của Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử
|
Một góc phố cổ Hà Nội khi lên đèn. (Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN) |
Thăng
Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt
Nam. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi
khác nhau được ghi chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam và chia thành
hai loại: chính thức và không chính thức, theo thứ tự thời gian.
Những tên gọi chính thức của Thăng Long-Hà Nội
qua chiều dài lịch sử
Tên chính thức là những tên được chép trong sử sách do các triều đại
phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
Tống Bình: Thành Tống Bình là trị sở của những kẻ đô
hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907). Trước đây, trị sở
của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy, chúng
mới chuyển đến Tống Bình.
Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà
Đường, vào năm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng
là thần Long Đỗ. Do đó, trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long
Đỗ.
Vào năm Quang Thái thứ 10 (năm 1397) đời vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý
Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ
Thanh Hóa.
Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa,
nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ
có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông
sâu, đất bằng phẳng rộng rãi." Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên
gọi đất Hà Nội thời cổ.
Đại La: Đại La hay Đại
La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao lấy Kinh
Đô Thăng Long xưa. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng
thành quách." Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi
vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành.
Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn
trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Chiếu dời đô của vua
Lý Thái Tổ (năm 1010) viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao
Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Sách “Toàn thư”,
Tập 1, Hà Nội 1993, tr 241).
Thăng Long (Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính
văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại
Việt sử ký toàn thư viết lý do hình thành tên gọi này như
sau: "Mùa Thu, năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh
phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở
thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Sách “Toàn
thư”, Tập 1, Hà Nội 1993, tr 241).
Đông Đô: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư"
viết: "Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Hồ Hán Thương
coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Sách “Toàn thư”, Tập I, Hà Nội 1993,
tr 192). Hồ Quý Ly lên ngôi đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa), Thăng Long là
Đông Đô.
Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chú thích: "Đông Đô
tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô"
(Sách “Cương mục”, Tập 2, Hà Nội 1998, tr 700).
Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân
nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví
là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho
biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông
Đô, đổi tên thành Đông Quan.
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý
(1408), Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu
thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông
Quan thì chắc phá được chúng" (Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội
1993, tr 224).
Đông Kinh: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư"
viết về sự ra đời của tên “Đông Kinh” như sau: "Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh
Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành
Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại
Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là
thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long
là Đông Kinh" (Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội 1993, tr 293).
Bắc Thành: “Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ-Quang Trung
1787-1802) vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc
thành. Đầu đời Gia Long đặt “Tổng trấn Bắc Thành," đem phủ Phụng Thiên
lệ vào” (Nguyễn Vinh Phúc-Trần Huy Bá, Đường phố Hà Nội, Hà Nội 1979,
tr12).
Thăng Long (Thịnh vượng lên): Sách "Lịch sử Thủ
đô Hà Nội" viết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi
cũ là Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng
trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh
thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi.
Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn
quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long,
nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ
rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được
dùng chữ "Long" là "Rồng" [Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà
Nội, Hà Nội 1960, tr 81].
Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ
lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng
thành Thăng Long lại quá lớn rộng.
Hà Nội: Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội viết: "Năm 1831,
vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung
quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập
thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của
Hà Nội" [Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. Hà Nội 1960,
Tr 82].
Những cái tên trong văn học của Thăng Long-Hà Nội
Trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ...,thành Thăng Long-Hà Nội được gắn
với nhiều tên gọi khác nhau.
Trường An: Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại
phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206
trước công nguyên-III sau công nguyên) và Đường (618-907). Do đó, Tràng
An được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh
đô, từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ
chỉ kinh đô Thăng Long.
Thí dụ: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An."
Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
Phượng Thành (Phụng Thành): Vào đầu thế kỷ XVI, ông
Trạng Nguyễn Giản Thanh (người Bắc Ninh) có bài phú nôm rất nổi tiếng:
“Phượng Thành xuân sắc phú” (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê.
Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ
thành Thăng Long.
Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn,
Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) ở Giao Châu (tên nước Việt Nam
thời đó) đóng trị sở. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để
chỉ Thăng Long-Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về
tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838-1877); ghi lại bài thơ của vua Tự
Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
“Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!”
Dịch nghĩa:
“Nhớ người vừa từ thành Long
Biên về tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi về triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt
ngay."
Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ
Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu
ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì
mất.
Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng
Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông
nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc.
Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống
Đa-Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789),
Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc
khôi phục Long thành).
Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được
dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí
ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh),
Hà Thành hiểu vọng...
Biểu trưng chào mừng 1.010 năm Thăng
Long-Hà Nội. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám-1945, đôi
khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ
Thăng Long-Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ-Khôn khéo
thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi
nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể
hoa nhài. Chẳng thanh lịch cũng thể người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên
này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh." Bắc đây chỉ
vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.
Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn được sử dụng
khá linh hoạt trong văn học, ca dao...
Ý nghĩa tên gọi Hà Nội
Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên
(vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ) thành phủ Hoài Đức và vẫn
coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà
đại diện là Tổng trấn Bắc Thành.
Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đã tiến hành một đợt cải cách hành
chính lớn, xóa bỏ Bắc Thành (gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc) ở miền
Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh, trong đó có 15 tỉnh trực thuộc trung
ương.
Lúc đó, Hoài Đức trở thành một trong bốn phủ họp thành tỉnh Hà Nội.
Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ. Hà Nội có nghĩa là phía trong
sông. Vì trong thực tế, tỉnh mới này nằm trên trong 3 con sông Hông,
sông Nhuệ và sông Đáy. Tỉnh Hà Nội có 4 phủ là:
- Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm
- Phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên
- Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là
phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương
Mỹ-Thanh Oai)
- Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy
Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục.
Khu vực tượng đài Lý
Thái Tổ chào mừng 1.010 năm Thăng Long-Hà Nội. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Tên gọi Hà Nội bắt đầu có từ năm 1831. Như vậy, tỉnh Hà Nội so với
nay gồm thành phố Hà Nội, nửa phía đông tỉnh Hà Tây (chính là tỉnh Hà
Đông thời Pháp thuộc) và toàn bộ tỉnh Hà Nam, rõ ràng nằm kẹp giữa sông
Hồng, sông Đáy và sông Nhuệ.
Cũng từ đó, thành Hà Nội cũng được coi là thành tỉnh, và con đường đi
từ Hàng Bông qua Mang Cá (công trình phòng thủ hình tam giác xây trước
cửa thành) đi vào Cửa Đông của toà thành được gọi là phố "Cửa Đông Cổng
tỉnh" nay là phố Đường Thành.
Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử (Thiên
Lương Huệ Vương): "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư
Hà Nội" (nghĩa là: Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ
Hà Đông về Hà Nội). Nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên
tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, "tiểu ban đặt tên" mới lấy câu sách Mạnh Tử
nói trên để đổi tỉnh Cầu Đơ ra tỉnh Hà Đông./.
(Vietnam+)