Hội thảo “Kiểm soát ô nhiễm nguồn nước" diễn ra tại HN

Hồ chứa nước thải chưa qua xử lý đổ xuống thượng nguồn suối Lùng, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, Khánh Hòa. (Ảnh: Quang Đức/TTXVN)

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước hiện nay đang vượt khả năng kiểm soát do các hoạt động sản xuất, khai thác, kinh doanh, dịch vụ đòi hỏi Việt Nam phải khẩn trương xây dựng một khung pháp lý đủ mạnh và hiệu quả về ngăn ngừa ô nhiễm nước.

Khuyến cáo trên được đưa ra tại Hội thảo quốc tế “Kiểm soát ô nhiễm nguồn nước tại Việt Nam: Thực tiễn và Chính sách," do Liên hiệp các Hội khoa học Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng (CECR) phối hợp tổ chức ngày 17/4, tại Hà Nội.

Hơn 100 đại biểu là các chuyên gia, các nhà khoa học, xã hội học đến từ các Bộ Môi trường Mỹ, Thái Lan, các doanh nhân, cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ đã thảo luận một cách khoa học các vấn đề, thách thức tồn tại và đề xuất việc nghiên cứu thúc đẩy sự ra đời của Luật Kiểm soát ô nhiễm nước, nhằm từng bước đẩy lùi ô nhiễm nước, khôi phục lại nguồn nước sạch của Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Trần Việt Hùng, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, cho biết Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên nước dồi dào, với khoảng 2.360 sông, suối dài trên 10km và hàng nghìn ao, hồ. Những nguồn nước này là nơi cư trú và nguồn sống của các loài động, thực vật và hàng triệu người nhưng đang bị suy thoái và phá hủy nghiêm trọng do khai thác quá mức và bị ô nhiễm nặng với các mức độ khác nhau, từ nước mặt đến nước ngầm, thậm chí còn nhiều con sông, đoạn sông, ao, hồ đang “chết."

Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, trong đó đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường nước. Nhận thức không chỉ của nhân dân mà ngay cả của nhiều cấp chính quyền về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước còn chưa sâu sắc và chưa đầy đủ.

Về cơ sở pháp lý, Luật Bảo vệ môi trường được ban hành và có hiệu lực từ năm 1993, sau đó được Quốc hội tiếp tục sửa đổi, bổ sung năm 2005 cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Nhưng các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu, chế tài đối với các hành vi vi phạm, làm ô nhiễm môi trường nước còn chưa đủ sức răn đe.

Bà Nguyễn Ngọc Lý, Giám đốc CECR cho rằng, tình trạng ô nhiễm nước nghiêm trọng xảy ra chủ yếu ở hàng ngàn những khúc sông, suối nhỏ, các thủy vực gắn liền với khu cụm công nghiệp, các làng nghề và các khu đô thị. Các nguồn ô nhiễm khác do các hoạt động nông nghiệp, các khu dân cư.

Do tính chất đa dạng của các chất gây ô nhiễm và độ bao phủ xuyên biên giới của nước, việc kiểm soát ô nhiễm nước phức tạp và đòi hỏi có một luật riêng với chế tài mạnh và rõ ràng, kết hợp được giữa công nghệ và quản lý, có tính thực thi cao, hệ thống giám sát chuyên nghiệp, nguồn vốn đủ. Trong khi chờ đợi một Luật Kiểm soát ô nhiễm nước ra đời, các ưu tiên xử lý và khôi phục triệt để nên tập trung vào các sông suối nhỏ đang bị ô nhiễm.

Hiện mức độ ô nhiễm nước đang ngày càng gia tăng, do không kiểm soát được nguồn gây ô nhiễm hiệu quả. Tình trạng này đang gây ra những ảnh hưởng rõ ràng đến sức khỏe của người dân, làm tăng nguy cơ ung thư, sảy thai và dị tật bẩm sinh, dẫn đến suy giảm nòi giống.

Tại một số địa phương ở Việt Nam, sau khi quan sát các trường hợp ung thư, viêm nhiễm ở phụ nữ cho thấy 40-50% là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Trung bình mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Hàng năm gần 200.000 trường hợp mắc bệnh ung thư mới phát hiện, một trong những nguyên nhân chính là sử dụng nguồn nước ô nhiễm./.

Thu Hương