Sự cố nước nhiễm bẩn 'hé lộ' an ninh nguồn nước còn nhiều lỗ hổng
|
|
Toàn cảnh khu vực nhà máy nước sông Đà - tâm điểm của sự cố xả dầu thải. (Ảnh: PV/Vietnam+)
|
Liên quan tới vụ việc nguồn nước sạch ở Thủ đô Hà Nội nhiễm styren do
hành vi đổ trộm dầu thải đầu nguồn Nhà máy nước sông Đà, giới chuyên
gia đánh giá đây là sự cố môi trường nghiêm trọng, cho thấy công tác
quản lý, giám sát “an ninh nguồn nước” cũng như ứng phó sự cố còn nhiều
“lỗ hổng” đáng báo động.
Những gam màu “tối”
Với kinh nghiệm đúc rút từ việc xử lý 95 sự cố môi trường trên cả
nước, ông Phạm Văn Sơn, Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt
Nam cho rằng mặc dù vụ việc nước nhiễm dầu đang rất “nóng” nhưng cần
phải nhìn nhận một cách đại cục hơn thì mới có thể tránh khỏi những vụ
việc đáng tiếc có thể sẽ còn xảy ra.
Theo ông Sơn, bản chất vụ Formosa, hay Rạng Đông và mới đây là vụ Nhà
máy nước sông Đà đều có chung một “kịch bản” đó là thiếu chủ động trong
việc giám sát, ứng phó. Bởi thế, khi xảy ra sự cố thì việc huy động
nguồn lực, trang thiết bị, chỉ đạo xử lý sự cố còn rất lúng túng. Việc
xử lý thông tin, hướng dẫn cho người dân, cộng đồng cũng rất chậm trễ.
Đó cũng là lý do mà sự cố vượt tầm kiểm soát.
Nhìn nhận rộng hơn về những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn tới sự cố ô
nhiễm nguồn nước từ đầu nguồn Nhà máy nước sông Đà, ông Sơn cho hay hiện
nay dọc hai bên bờ sông Đà (gần khu vực hồ chứa của nhà máy nước) còn
có rất nhiều bồn chứa xăng dầu, tiềm ẩn nguy cơ rò rỉ, bục vỡ, xảy ra sự
cố môi trường.
Ngoài ra, các cơ sở sản xuất giấy, nước thải hóa chất dọc hai bên bờ
sông Đà và gần nhà máy cũng có thể có vấn đề trong xử lý nước thải.
Một mối lo khác được ông Sơn nhắc tới là hoạt động của các phương
tiện giao thông thủy trên sông Đà có thể va đâm cũng có nguy cơ tiềm ẩn
gây ra sự cố tràn dầu.
“Thế nhưng, theo quy định của nhà máy nước ở Việt Nam hiện nay thì họ
không phải lập kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu. Còn nếu phải xây dựng
hoạch ứng phó thì họ sẽ nhìn rõ những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên. Cái lỗi
của nhà máy trong vụ việc này là tại sao khi phát hiện dầu tràn vào vẫn
cho vận hành. Đây là điều bất cập,” ông Sơn nói.
Trong buổi chiều
16/10, có rất đông người dân đến xếp hàng lấy nước sạch. (Ảnh: Minh
Sơn/Vietnam+)
Người đứng đầu Trung tâm Ứng phó sự
cố môi trường Việt Nam cũng lưu ý, về mặt an toàn chất
lượng sản phẩm, chắc chắn phía nhà máy phải có quy trình kiểm soát cái
nguồn nước đầu vào, tức là nước thô. Nhưng việc 1 tuần mới lấy mẫu kiểm
tra 1 lần, kể cả khi nước sặc sụa mùi mà chất lượng nước phòng thí
nghiệm của nhà máy vẫn đạt tiêu chuẩn thì cần phải xem lại.
“Trong trường hợp không phải là sự cố tràn dầu, hóa chất, không phải
do phương tiện giao thông va đâm, mà về vấn đề an ninh, ví dụ như người
ta thải một chất độc hại từ hai bên bờ sông Đà, gây ảnh hưởng lâu dài về
sức khỏe con người thì liệu nhà máy có phát hiện được không,” ông Sơn
lo lắng.
Về vấn đề sau nhà máy, ông Sơn cho biết đường ống dẫn cấp nước từ nhà
máy về người dân Hà Nội từng bị bục vỡ tới hơn 20 lần và câu hỏi đặt ra
là liệu đã có phòng kiểm nghiệm độc lập để kiểm tra chất lượng ống đảm
bảo an toàn sức khỏe cộng đồng hay chưa?
“Ngoài ra, chúng ta đã lường trước được các tình huống đào, khoan
khiến đường ống bị thủng khiến chất độc hại lẫn vào đường nước sạch hay
chưa?Bởi, vấn đề khủng bố không thuần túy là nổ bom mà có những cái
‘lặng lẽ’ mà hàng chục năm sau mới phát hiện được mức độ ảnh hưởng,” ông
Sơn bày tỏ.
Câu chuyện vừa qua cũng cho thấy quy trình sản xuất, giám sát và ứng
phó với sự cố còn rất lỏng lẻo. Và thế, nguồn nước có thể bị “xâm hại”
bất cứ lúc nào.
Phải có hệ thống quan trắc tự động
Trên phương diện là Trưởng Ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt
Nam, tiến sĩ Đào Trọng Tứ cho rằng từ sự cố nước nhiễm dầu của Nhà máy
nước sông Đà cho thấy
“an
ninh nguồn nước” đang thực sự có vấn đề. Ở đây cần nhìn
nhận việc kiểm soát, giám sát đầu vào và chất lượng nước đầu ra chưa đảm
bảo.
“Với quốc tế, việc cấp nước cho con người là mối quan tâm hàng đầu để
đảm bảo an ninh nước. Do đó, họ giám sát, kiểm soát nguồn nước hết sức
chặt chẽ bằng hệ thống quan
trắc tự động, lấy mẫu xét nghiệm liên tục hàng ngày,” ông
Tứ nhấn mạnh.
Theo ông, đơn cử như ở châu Âu, để đảm bảo vấn đề “an ninh nguồn
nước” đối với một hồ tự nhiên, hay “nhân tạo hoàn toàn” thì các ngả dẫn
ra hồ đều có biển báo cảnh báo, gắn camera an ninh. Khi có người tới hồ
đều có người đến nhắc nhở không được làm bẩn hồ và tốt nhất không ở đấy.
Hàng ngày đều có người lấy mẫu nước. Khi xảy ra sự cố sẽ lập tức có
cảnh báo và xử lý bằng biện pháp cao nhất, có thể là truy tố hình sự.
Sự cố nước sạch sông Đà khiến người dân Hà
Nội lao đao. (Ảnh: Vietnam+)
Còn ở Việt Nam thì sao? Từ năm 2009, chúng ta đã có quy chuẩn quốc
gia về việc giám sát chất lượng ăn uống và giám sát chất lượng nước sinh
hoạt. Ngày 14/12/2018, Bộ Y tế cũng đã có Thông tư số 41 về quy chuẩn
quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch sử dụng cho
mục đích sinh hoạt.
Theo quy chuẩn trên, việc giám sát chất lượng nước sinh hoạt được
thực hiện bằng hai hình thức là nội kiểm (cơ sở cung cấp nước tự thực
hiện) và ngoại kiểm (cơ quan quản lý nhà nước thực hiện). Trước khi đưa
nguồn nước vào sử dụng sẽ phải xét nghiệm tất cả các chỉ tiêu. Đối với
nước sinh hoạt sẽ phải đảm bảo 14 chỉ tiêu, riêng nước ăn uống có tới
109 chỉ tiêu như màu sắc, mùi vị, độ dục, Clo dư, pH...
Như vậy, trong quy chuẩn và thông tư của Bộ Y tế đã nêu rất rõ yêu
cầu về việc giám sát chất lượng nước ở đầu nguồn là cần phải có xét
nghiệm, nếu đảm bảo chỉ tiêu chất lượng thì mới được đưa vào sử dụng.
Khi xảy ra sự cố, đơn vị liên quan phải thông báo chất lượng nước hàng
ngày cho cơ quan quản lý và khách hàng để xử lý.
Tuy nhiên, qua sự cố ô nhiễm nguồn nước Nhà máy nước Sông Đà, ông Tứ
cho rằng việc thực thi của doanh nghiệp và ngay cả cơ quan quản lý đang
có vấn đề.
“Lâu nay, các Bộ, ngành nói rất nhiều rằng chúng ta đang đứng trước
thách thức về nguồn nước. Chúng ta có đủ Luật Bảo vệ Môi trường, Nghị
định, Thông tư, nhưng sao các sông suối của chúng ta vẫn bị tác động,
suy thoái, ô nhiễm phổ biến như vậy? Đơn giản là việc thực thi của cơ
quan quản lý và doanh nghiệp có vấn đề, chưa thực sự sâu sát trong việc
kiểm tra, giám sát...,” ông Tứ nhận định.
Qua sự cố nêu trên, giới chuyên gia kiến nghị các khu vực đầu nguồn
cung cấp nước cho các đô thị lớn phải được xếp vào danh mục các công
trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia và phải có hệ thống quan
trắc tự động, giám sát nghiêm ngặt và liên tục.
Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cũng cần chủ động trong việc kiểm tra
bên ngoài và yêu cầu khắt khe đối với các đơn vị vận hành, sử dụng nguồn
nước; có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các đơn vị vận hành nguồn
nước. Có như thế mới tránh khỏi rủi ro đáng tiếc như sự cố nước
nhiễm dầu vừa xảy ra./.
Hùng Võ (Vietnam+)