Đẩy mạnh đầu tư vào người trẻ tuổi để xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ
|
|
(Ảnh minh hoạ: Vietnam+)
|
Báo cáo điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm
2019 vừa được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Đại sứ quán
Australia tại Việt Nam công bố hôm nay (14/7) tại Hà Nội. Báo cáo đã đưa
ra một bức tranh toàn diện và cung cấp các số liệu cập nhật về bạo lực
đối với phụ nữ ở Việt Nam.
Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã thực hiện
thành công điều tra quốc gia lần thứ hai về bạo lực đối với phụ nữ, đặc
biệt báo cáo đã sử dụng phương pháp điều tra đa quốc gia về tình hình
sức khỏe của phụ nữ và bạo lực gia đình của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Chính phủ Việt Nam và các đối tác cam kết sẽ tiếp tục giải quyết một
cách hiệu quả và chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ dựa trên những tiến bộ
đạt được trong những năm gần đây.
Tỷ lệ bạo lực thấp hơn
Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm
2019 cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có khoảng 2 phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc
hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần, bạo lực kinh tế
cũng như kiểm soát hành vi do chồng gây ra trong cuộc đời. Gần 32% phụ
nữ bị bạo lực hiện thời (trong 12 tháng qua). Phụ nữ khuyết tật bị các
hình thức bạo lực do chồng gây ra cao hơn so với phụ nữ không bị khuyết
tật.
Tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ do chồng gây ra năm 2019 thấp hơn so với
năm 2010. Ví dụ, phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác trong đời năm 2019 là
26,1%) ít hơn so với năm 2010 là 31,5%, điều này rõ ràng hơn với nhóm
phụ nữ trẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ bị chồng bạo
lực tình dục trong đời năm 2019 (13,3%) cao hơn so với năm
2010 (9,9%). Điều này đặc biệt đúng ở nhóm phụ nữ trẻ ở độ tuổi từ
18-24 (13,9% năm 2019 so với 5,3% năm 2010). Mặc dù điều này phản ánh sự
gia tăng của tình trạng bạo lực nhưng các chuyên gia cho rằng đây cũng
có thể là kết quả của sự thay đổi xã hội mà ở đó phụ nữ cởi mở hơn khi
nói về chủ đề tình dục và bạo lực tình dục.
Báo cáo chỉ ra rằng bạo lực đối với phụ nữ vẫn bị che giấu. Một nửa
phụ nữ bị chồng bạo lực chưa bao giờ kể với bất kỳ ai. Gần như tất cả
phụ nữ (90,4%) bị chồng bạo lực đã không tìm sự giúp đỡ từ các các cơ
quan chính quyền, chủ yếu là do sợ bị tai tiếng, kỳ thị và phiền hà.
Đáng lưu ý, trẻ em cũng là nạn nhân khi sống trong môi trường bạo
lực. Trong số phụ nữ bị chồng bạo
lực thể xác, 61,4% cho biết con cái họ đã từng chứng kiến
hoặc nghe thấy bạo lực. Phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác hoặc tình dục
nói rằng con cái họ (5-12 tuổi) thường có các vấn đề về hành vi.
Một nửa phụ nữ bị chồng bạo
lực chưa bao giờ kể với bất kỳ ai. (Ảnh minh hoạ: Vietnam+)
Báo cáo nhận định, bạo lực đối với phụ nữ gây ra những hậu quả nghiêm
trọng cho phát triển kinh tế và sức khỏe thể chất, tinh thần phụ nữ.
Ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gây ra cho nền kinh tế Việt Nam
tương đương với 1,8% GDP.
Bà Naomi Kitahara, Trưởng Đại diện UNFPA tại Việt Nam đánh giá:
“Nghiên cứu năm 2019 cũng cho thấy những điểm sáng tích cực cần đề cập
trong các chương trình nghị sự và chính sách. Ví dụ, ngoại trừ tình
trạng bạo lực tình dục, tỷ lệ bạo lực ở tất cả các hình thức năm 2019
đều thấp hơn so với năm 2010. Điều này rõ ràng hơn ở thế hệ trẻ. Đồng
thời Điều tra năm 2019 cũng chứng kiến sự thay đổi về chuẩn mực giới ở
nhóm người trẻ tuổi theo hướng tiến bộ. Điều này có nghĩa rằng chúng ta
phải đầu tư đúng hướng vào nhóm người trẻ tuổi để đẩy mạnh sự thay đổi
trong xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ.”
Nhận thức rõ hơn để hành động
Tại hội nghị công bố kết quả điều tra, Chính phủ Việt Nam, Chính phủ
Australia và UNFPA cùng kêu gọi hành động khẩn cấp để chấm dứt bạo lực
đối với phụ nữ.
Bà Nguyễn Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Phó
Chủ tịch thường trực Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
nhấn mạnh: “Sau gần 10 năm kể từ cuộc điều tra lần thứ nhất, các kết quả
thu được cho thấy cả những thay đổi tích cực và những tồn tại hạn chế.
Thay đổi tích cực đang diễn ra rõ nét ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi, họ không
cam chịu và mạnh mẽ hơn trong đấu tranh với bạo lực. Những người có
trình độ học vấn cao có tỷ lệ bị bạo lực cũng thấp hơn và điều này cho
thấy học vấn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp phụ nữ tự tin hơn, mạnh mẽ
và độc lập hơn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ vẫn có nguy cơ
cao bị bạo lực.”
“Tình trạng bạo lực với phụ nữ vẫn được che giấu do định kiến giới
còn khá phổ biến trong xã hội. Sự im lặng, kỳ thị của cộng đồng và ‘văn
hóa đổ lỗi’ là những rào cản khiến người bị bạo lực không dám lên tiếng
và tìm kiếm sự giúp đỡ. Trẻ em cũng là nạn nhân, dễ gặp rủi ro hơn trong
cuộc sống khi trẻ phải sống trong gia đình mà mẹ của mình bị bạo lực.
Những tồn tại, thách thức này cần được sớm khắc phục với trách nhiệm từ
phía các cơ quan quản lý nhà nước cũng như sự tham gia tích cực của các
tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức phi chính phủ và mỗi người dân
trong xã hội,” Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nói.
Cũng tại hội nghị, bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia Việt Nam khẳng
định: “Chúng tôi hỗ trợ điều tra này là để chúng ta nhận thức rõ hơn có
bao nhiêu số phận đang bị ảnh hưởng bởi bạo lực, cưỡng bức và quấy rối.
Mỗi số liệu trong báo cáo phản ánh những trải nghiệm về bạo lực của
phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam khi ở nhà, ở công sở hay nơi công cộng.
Báo cáo này là bằng chứng cho thấy chúng ta lắng nghe họ, chúng ta tin
tưởng họ và chúng ta cần phải hành động.”
Bà Naomi Kitahara cho rằng: “Hôm nay, chúng ta đã có bằng chứng cập
nhật nhất về thực trạng bạo
lực đối với phụ nữ ở Việt Nam và tôi kêu gọi mọi người hãy
cùng chung tay nỗ lực chấm dứt tình trạng bạo lực này. Nếu không giải
quyết vấn đề này, Việt Nam không có cách nào đạt được Mục tiêu phát
triển bền vững vào năm 2030 và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau”./.
Hồng Kiều (Vietnam+)