Xẩm tàu điện - Đặc trưng của phố cổ Hà Nội
|
|
Hát xẩm ngày nay. (Nguồn: Nghìn năm Thăng Long)
|
Xẩm là âm nhạc đường phố. Nhưng tại sao nó không gắn với một địa danh khác mà
lại gắn với Bờ Hồ? Lại có người gọi xẩm tàu điện? Thực ra cách gọi khác nhau
nhưng cơ sở để gọi lại không khác: Tàu điện muốn chạy đi đâu thì cũng bắt đầu từ
Bờ Hồ và từ đâu về thì cũng dừng ở Bờ Hồ.
Tại sao những người hát xẩm không chọn ga Hàng Cỏ, là bến tàu hỏa còn đông đúc
hơn bến tàu điện? Giản đơn là tàu điện tuy chỉ có ba toa, chở ít khách hơn nhưng
liên tục chuyến đi chuyến về nên khách luôn mới. Còn tàu hỏa lại không đi về
liên tục, hơn nữa, xuống tàu là người ta về nhà hay đến ngay nơi cần đến.
Do vậy, bến tàu điện là nơi kiếm sống thuận hơn chỗ khác, chính vì thế dân gian
gắn xẩm với tàu điện. Trong những người hát xẩm, không có những quy ước về lãnh
địa, nhóm này ngồi chỗ này thì nhóm kia tự biết đi chỗ khác. Giữa họ không bao
giờ có ẩu đả, tranh giành chỗ hát.
Truyền thuyết kể rằng, vào thế kỷ 13, Hoàng tử Trần Quốc Đĩnh bị người em
trai đâm mù mắt giữa rừng xanh, đoạt ngọc quý để chiếm ngôi vua. Trong cơn mê
sảng, Trần Quốc Đĩnh mơ thấy mình được ca hát với các tiên nữ trong tiếng nhạc
tưng bừng. Tỉnh dậy, mới biết mình được những người dân quê thôn dã hết lòng
chăm sóc.
Qua cơn hoạn nạn và nhớ lại giấc mơ, Đĩnh lần mò tự tay chế tác cây đàn bằng một
ống tre dài, có cần mềm để nắn tiếng, chỉnh âm, lại có dây se bằng vỏ cây và có
que để bật, gõ thành tiếng nhạc. Chàng còn soạn ra cả những bài thơ để hát, kể
lể tâm tình của mình, của đời, mang niềm vui đến với mọi người, mọi nhà, tay đàn
miệng hát khắp mọi nơi, từ bến sông, bãi chợ, sân đình…
Tiếng tăm của chàng ca sĩ mù vang đến tận kinh thành, Thái Thượng Hoàng cho vời
vào cung, mới hay đó chính là hoàng tử mất tích năm nào. Từ đấy, Đĩnh dạy cho
mọi người đàn hát, nhất là những người khiếm thị, vừa là để vui đời, vừa là
nghiệp mưu sinh.
Vậy xẩm ra đời từ khi nào? Có nhà nghiên cứu cho rằng, có thể xẩm ra đời trước
khi có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo. Hoặc xẩm
chỉ là bản sao của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh hạn chế của lớp người
tật nguyền; hoặc đây là mối liên quan ruột rà tất yếu không ai chối cãi giữa hai
loại hình, bởi chính nghệ nhân xẩm xếp hát xẩm và chèo cùng loại trung ca, trong
khi tuồng vào loại võ ca, ca trù vào loại văn ca.
Các nghiên cứu về xẩm cho thấy, hát xẩm là một thể loại khan xuất hiện ở Hà Nội
vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ban đầu chỉ có ở xẩm Hà Nội, sau đó
"loang" ra để có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên. Xẩm có rất nhiều
bài, nhưng có bảy bài đặc trưng là "xẩm chợ, chênh bong, riềm huê, ba bậc nhịp
bằng, phồn huê, hát với ai và xẩm thập ân" với những làn điệu "xẩm chợ, xẩm thập
ân, xẩm tàu điện...". Các bài xẩm về Hà Nội thường nhắm đến hai đích, giới thiệu
với người ở quê về đô thị phồn hoa này và "nịnh" người dân thị thành, nơi hàng
ngày họ nai lưng kiếm sống. Trong bài "Hà Nội 36 phố phường" có đoạn:
“Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức ấy xa gần xem mua...”
Trong bài “Vui nhất Hà thành” có đoạn:
“Bắc kỳ vui nhất Hà Thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
Thanh tao, lịch sự đủ mùi
Cao lâu, rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu khắp hết đông tây
Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sau phố phường
Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm
Người đi xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ."
Thập niên 30 của thế kỷ 20, ở bãi An Dương có xóm xẩm. Sở dĩ có tên như vậy
bởi xóm có chừng 10 nhà gồm những người hát xẩm và vợ con họ. Ban ngày đi hát,
tối lại dắt díu nhau về nấu nướng rồi ngủ ở đây. Gọi là nhà nhưng thực ra chỉ là
những túp lều lợp tranh, vách thưng bằng lá mía và trong nhà chẳng có đồ đạc gì
ngoài vài ba cái niêu đất. Nước nấu ăn lấy từ sông Hồng để lắng phù sa. Cơm nước
xong là đi ngủ. Xóm tồn tại đến năm 1954 sau đó thì mỗi người một nơi. Số lượng
người hát xẩm đông nhất là thời kỳ Pháp thuộc và những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
Song tưng bừng nhất lại là năm 1945. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, xẩm còn được "thời sự hóa." Chẳng hạn để hưởng ứng phong trào bình dân
học vụ, các nghệ nhân xẩm đã sáng tác bài "Tiễu trừ giặc dốt" (được trình
diễn ở chiếu xẩm Đồng Xuân với lời mới "Tiễu trừ tham nhũng"). Sau Hiệp
định Geneva 1954, Nhà nước vận động nhiều nhóm hát xẩm, cử người viết bài hát và
đến diễn ở các vùng duyên hải miền Bắc nhằm chống lại thực dân Pháp lôi kéo
người dân di cư vào Nam.
Vài ba chục nghệ nhân hát xẩm ở Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Giang, Hà
Nội… đã tham gia cuộc vận động này. Nhà văn Thanh Tịnh được giao phụ trách một
nhóm hát xẩm gồm 23 người về vùng Bùi Chu, Phát Diệm để hát với mục đích trên.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, tại bến tàu điện Bờ Hồ vẫn có khá nhiều người khiếm
thị hát xẩm, có một cặp vợ chồng hát rất hay và họ kiếm sống ở đây cho đến khi
máy bay Mỹ ném bom Hà Nội thì họ dắt díu nhau đi đâu không rõ. Thập niên 70 của
thế kỷ 20, loại hình nghệ thuật này mai một rồi đi dần vào quên lãng. Kể từ đó,
những người hát xẩm không hành nghề nữa, hát xẩm tưởng chừng như đã thất truyền.
Khi sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào-Đồng Xuân từ đầu
tháng 4/2006, bỗng nhiên, người ta thấy xẩm vẫn còn duyên và mặn mà lắm. Nhạc sỹ
Thao Giang, Chủ nhiệm chương trình âm nhạc dân gian "Hà Nội 36 phố phường" và
cũng là người có công sưu tầm, khôi phục lại nghệ thuật hát xẩm cho rằng, cách
buôn bán của các cửa hàng có thể thay đổi nhưng hồn của bài hát vẫn ở trong tâm
thức mỗi người khi họ nghe xẩm.
Để phục vụ cho chương trình này, nhóm "Xẩm Hà Nội" đã sưu tầm được khoảng 20
điệu. Ngoài những điệu được phổ từ thơ của Nguyễn Khuyến, Á Nam Trần Tuấn Khải,
Nguyễn Bính, như "Mục Hạ vô nhân", "Anh Khóa", "Lỡ bước sang ngang", "Trăng
sáng vườn chè"… thì còn nhiều điệu khác, trong đó khá đặc sắc chính là
"Xẩm tàu điện" do nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trình bày. "Xẩm tàu điện" đặc
sắc bởi đây chính là điệu xẩm của riêng Hà Nội. Nếu ca trù, hát cô đầu là đặc
trưng của phố Khâm Thiên, thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân và phố cổ.
Những nghệ sỹ yêu xẩm phải kể đến nghệ sỹ ưu tú Xuân Hoạch (Nhà hát Ca múa nhạc
Việt Nam), Văn Tý (Viện Văn hóa dân gian), Thanh Ngoan (Nhà hát Chèo Việt Nam),
Đoàn Thanh Bình (Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh), cô "xẩm trẻ" Mai Tuyết Hoa
(Viện Âm nhạc)… cùng các nhạc sỹ Hạnh Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự Cường… đã
tập hợp về Trung tâm Phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam do giáo sư, tiến sĩ
Phạm Văn Khang và nhạc sĩ Thao Giang phụ trách từ năm 2003. Đó là những tín hiệu
tốt cho tương lai của xẩm trong văn hóa đường phố của Thăng Long-Hà Nội./.
(Nghìn năm Thăng Long/Vietnam+)