Trang phục cung đình Huế - Tuyệt tác nghệ thuật
|
|
(Nguồn: Internet)
|
Trang phục là một trong những yếu tố phản ánh dấu ấn văn hóa trong mỗi thời
đại và là một thành tố quan trọng tạo nên lối sống của một vùng, một dân tộc.
Qua cách trang phục, có thể biết được mức sống và đời sống thẩm mỹ của con người
qua các giai đoạn trong tiến trình phát triển của dân tộc; thấy được khoảng cách
giữa các tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy, khi tìm hiểu đời sống xã hội của
Việt Nam dưới vương triều Nguyễn nói riêng và văn hóa Huế nói chung, chúng ta
không thể bỏ qua một di sản đặc sắc, đó là trang phục cung đình Huế.
Trang phục cung đình Huế còn lại đến ngày nay khá phong phú, gồm trang phục của
vua, hoàng thái hậu, hoàng thái tử, hoàng tử, trưởng công chúa và các quan văn
võ trong triều. Chúng đều là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác được làm ra
theo quy định của Bộ Lễ, qua bàn tay chế tác tài hoa của các nghệ nhân.
Trang phục cung đình Huế không chỉ đơn thuần là những bộ quần áo quý, những cổ
vật vô giá mà còn là những tác phẩm nghệ thuật, những sử liệu bất thành văn rất
cần thiết cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa thời Nguyễn trên đất Huế.
Các nhóm trang phục
Trang phục của các bậc vua chúa nhà Nguyễn có nhiều loại và mỗi loại có tên gọi
riêng, màu sắc riêng và chỉ mặc trong những dịp cụ thể, có thể phân thành các
nhóm: Trang phục thiết đại triều, trang phục thiết thường triều, trang phục nghi
lễ và thường phục. Mỗi nhóm bao gồm áo, mũ, đai, quần, giày ủng, hia hài... được
may theo cách thức riêng, có tên gọi riêng và có màu sắc hoa văn khác nhau.
Mũ thiết đại triều của vua gọi là mũ cửu long, áo gọi là long bào, trang trí
rồng mặt nạ, đi kèm với nó là ủng thêu đôi rồng bằng kim tuyến có nạm vàng.
Mũ thiết thường triều của vua gọi là mũ bình thiên, áo gọi là hoàng bào, thêu
viên long nạm trân châu, tơ vàng, đi kèm với nó là đôi hài thêu rất cầu kỳ.
Mũ dùng trong dịp vua tế Nam Giao là miện, áo gọi là cổn, màu đen, tay thụng
thật lớn, thêu lưỡng long triều nhật dọc hai thân trước.
Áo vua mặc đi cày ruộng thêu rồng nhỏ trong các cụm mây, màu gạch non, gọi là
hồng bào. Trong khi đó, mũ của thái tử, tuy rất giống mũ bình thiên của vua,
nhưng lại gọi là mũ bình đính.
Về chất liệu
Chất liệu các loại vải dùng để may áo mũ cho vua chúa, hoàng thân quốc thích đều
là cao cấp. Triều đình thường đặt mua ở Trung Hoa hay các hộ dệt lụa vải riêng
biệt cho cung đình các loại gấm vóc, sa nam, nhiễu lụa... Nhiều làng nghề truyền
thống ở Việt Nam cũng tiến nộp các mặt hàng dệt chất lượng cao thay cho tiền
thuế. Các loại vải thường dùng để may áo mũ cho đế hậu là sa (để may áo bào),
đoạn (may thường phục), tơ (để trang trí, may bít tất), lụa (may áo thường
triều, khăn choàng)...
Trên áo mũ thường đính vàng bạc, trân châu, kim cương... để tăng thêm giá trị và
uy nghi. Trên chiếc mũ vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 hình rồng bằng
vàng tốt; 30 đóa hoa vuông có khảm ngọc, kim cương và trân châu đính kèm lên đến
140 hạt. Mũ của hoàng hậu có chín con rồng, chín con phượng bằng vàng tốt, chín
miếng bồn khoan bằng bạc, bốn cái ống trâm bằng bạc có gắn 198 hạt trân châu và
231 hạt pha lê. Tất cả áo mũ, xiêm y, hài ủng của vua, hậu cho đến phi tần, cung
giai, tùy theo thứ bậc mà đính vàng bạc, trân châu nhiều hay ít nhưng cái nào
cũng có.
Về màu sắc
Cách phục sức của vua, quan và hoàng thân quốc thích triều Nguyễn cũng được quy
định nghiêm ngặt bởi phẩm trật (trật tự của cấp bậc). Các bậc vạn tuế như vua,
hoàng thái hậu được dùng màu chính hoàng, tức màu vàng; các bậc thiên tuế như
hoàng thái tử dùng màu da cam; các bậc thân vương, hoàng tử và trưởng công chúa
mặc màu xích tử (đỏ); các phi tần mặc áo đại hồng (hồng), cổ đồng (đồng) hoặc
cam bích (tím biếc) tùy theo cấp bậc.
Trong tế lễ Nam Giao và kỵ phục thì dùng màu huyền (đen). Đối với trang phục
thường triều, vua dùng màu vàng, còn lại từ các thân vương, hoàng tử cho đến các
quan đều dùng màu xanh lam, lục và đen, nhưng phổ biến là màu xanh lam.
Về đề tài trang trí
Đề tài trang trí trên trang phục cung đình triều Nguyễn cho thấy sự phân chia
thứ bậc được tuân thủ nghiêm ngặt. Hầu hết chúng đều được trang trí rất cầu kỳ
và mang nhiều ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Phổ biến nhất là long (rồng) - một
hình tượng xuyên suốt trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, tượng trưng cho vương
quyền, độc tôn của nhà vua, còn gọi là long bào. Cùng với hoa văn hình phụng
(phượng), quy (rùa), lân (sư tử) hợp thành tứ linh mang hàm nghĩa của sự quyền
quý.
Áo vua trang trí rồng, áo hoàng tử trang trí lân, áo hoàng hậu, công chúa thêu
hoa và chim phượng.
Mũ đại triều của vua có chín rồng hướng thiên bằng vàng; mũ hoàng hậu có chín
con rồng, chín con phượng; mũ hoàng thái hậu chỉ thêu chín con phượng; mũ của
cung giai thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1-7 chim phượng...
Cũng là đề tài rồng nhưng rồng trên áo vua thì có năm móng, rồng trên áo thái tử
cũng có năm móng nhưng chỉ là rồng mặt nạ, không được trang trí phi long hay hồi
long chầu nhật... Nếu trên áo vua, hậu trang trí những con rồng với dáng vẻ uy
nghi, đường bệ thì trên áo mũ của hoàng thân, tôn tước chỉ là những con mãng,
con giao (hóa thân ở thứ bậc thấp hơn của rồng).
Trên áo mũ của hoàng thái hậu và hoàng hậu trang trí đồ án hoa đoàn phượng (là
bông hoa tròn trong có hình hai con phượng), với những nét vẽ, đường thêu rất
sống động, công phu, thì phượng hoàng trên áo của cung giai chỉ là những hình
ảnh giản lược, cách điệu và số đồ trân châu đính kèm cũng ít hơn. Chỉ có trên áo
vua, hậu người ta mới trang trí thêm các hoa văn tứ thời, bát bửu, còn trên áo
mũ của vương tôn và cung giai, bát bửu được thay thế bằng những cổ đồ.
Ngay cả chữ Hán trang trí trên áo mũ cũng có sự phân biệt. Áo vua thường trang
trí nổi các chữ Phúc, Lộc, Thọ đại tự theo lối chân hoặc triện, trong khi đó các
chữ Phúc, Lộc, Thọ trên áo phụ nữ thường nhỏ hơn và dệt chìm trên mặt vải, không
nạm trân châu hay thêu kim tuyến như trên áo mũ của vua.
Quy định nghiêm ngặt là vậy nhưng đôi lúc cũng có những phá lệ rất thú vị. Chiếc
áo thiết thường triều của vua Khải Định hiện lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật cung
đình Huế ngoài hoa văn rồng mây, thủy ba như thông lệ còn điểm xuyết 18 đóa hồng
nhưng thêu kim tuyến và chỉ bóng cùng hai bông cúc đại đóa ở trước ngực và sau
lưng. Trên một áo khác của vua còn có hình chim phượng đối mặt với rồng trong
vầng mây hình cầu.
Khải Định là con người màu mè, chuộng sự mới lạ, kỳ dị nên không chỉ trong trang
phục mà cả trong cung điện, lăng tẩm của vua, cái cá tính độc đáo đó của nhà vua
cũng “ló dạng” ở nhiều nơi mà Thiên Định Cung là một ví dụ cụ thể.
Trên phương diện mỹ thuật, mỗi một bộ trang phục của các bậc đế hậu thời Nguyễn
chính là một tác phẩm nghệ thuật. Đó là sự kết hợp của nghệ thuật may thêu, hội
họa với nghề kim hoàn. Phong cách trang trí mang một nét thuần Nguyễn từ các họa
tiết rồng mây đến hồi văn thủy ba, chữ thọ... Những mô típ ấy đã xuất hiện rất
nhiều trong trang trí cung đình Huế trên các chất liệu gỗ, đồng, gốm sứ... cũng
như việc trang trí trên các chất liệu khác, trang trí trên vải cũng có sự biến
chuyển qua từng thời đại và mỗi giai đoạn lịch sử, để lại những dấu ấn khó phai
mờ trên các tác phẩm ấy.
Cùng với các di vật lịch sử khác, trang phục cung đình Huế đã tạo nên một nét
văn hóa đặc trưng của vương triều Nguyễn - vương triều cuối cùng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam.
Hiện nay, sưu tập trang phục cung đình Huế đang được lưu giữ và trưng bày tại
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, số 1 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội và Bảo tàng Mỹ thuật Cung
đình Huế, số 3 đường Lê Trực, thành phố Huế./.
Phương Dung (TTXVN/Vietnam+)