Những tòa thành trên đất Hà Nội thời Bắc thuộc

Một góc thành cổ Hà Nội ngày nay. (Nguồn: Internet)

Từ thời Lý, Thăng Long trở thành "nơi thượng đô của Kinh sư muôn đời". Nhưng từ trước đó, Thăng Long-Hà Nội đã đảm trách vai trò một trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.

Địa thế trời cho “Rồng cuộn hổ ngồi” của miền đất Hà Nội đã khiến Hà Nội đảm trách vai trò một trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa từ rất lâu đời và giữ vị trí Thủ đô của đất nước trong thời gian dài nhất của lịch sử nước ta.

Thư tịch cổ chép rằng, từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10 ở Hà Nội luôn có việc đắp lũy xây thành, nghĩa là Hà Nội luôn được chọn để đặt trị sở cai trị. Cứ theo Đại Việt sử ký toàn thư thì có những thành sau:

Mậu Dần (618), Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa “đắp thành nhỏ bên trong vòng quanh 900 bước để chống giữ quân Trường Châu.”

Cứ theo quy định mỗi bộ là 6 thước, mỗi thước là 3cm thì thành nhỏ này có chu vi là 1.674m.

Năm Đinh Mùi (767), quân Côn Lôn và Chà Và đến đánh Châu Thành. Kinh lược sứ là Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh tan quân Côn Lôn và Chà Và ở Chu Diên.

Trương Bá Nghi đắp lại La Thành.

Năm Tân Mùi (791), Triệu Xương nhà Đường sang làm Đô hộ. Xương đắp thêm La Thành cho kiên cố hơn.

Năm Quý Mùi (803), đô đốc Bùi Thái sai san phẳng Câu địa thành ở trong thành, hợp làm một thành.

Năm Mậu Tý (808), Trương Chu làm đô hộ Giao Châu đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyền dài, mỗi chiếc thuyền có 25 người chiến thủ, 23 người tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, đi nhanh như gió.

Năm 824, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đóng ở thành ngày nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thày xem đất bảo rằng: sức ông không đắp nổi thành lớn, độ 50 năm nữa về sau tất có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Trung, Cao Biền đắp La Thành đúng như lời ấy.

Năm Mậu Dần (858), Vương Thức làm Kinh lược Giao Châu. Thức là người có tài lược, đến phủ sai trồng cây táo làm hàng rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong thành, bên ngoài hào trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm được.

Năm Bính Tuất (866), Cao Biền giữ phủ xưng Vương đắp La Thành vòng quanh là 1982 trượng lẻ năm thước, thân thành cao hai trượng sáu thước, chân thành rộng hai trượng năm thước, tường nhỏ trên bốn mặt thành cao năm thước năm tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống sáu sở, cừ nước ba sở, đường đi bộ 34 sở. Lại đắp đê vòng quanh 2125 trượng tám thước, thân cao một trượng năm thước, chân rộng hai trượng. Lại làm hơn 40 vạn gian nhà.

Dựa vào thư tịch cổ, ta có thể kê ra được những tòa thành: thành nhỏ của Khâu Hòa đắp năm 618; La Thành của Trương Bá Nghi đắp lại năm 767; La thành đắp thêm năm 791; thành san đắp gộp các bộ phận nhỏ của các thành làm một thành nhỏ của Bùi Thái năm 803 (không chép tên nhưng chắc vẫn là La Thành vì những thành được san gộp trước đều mang tên La Thành); Thành Đại La đắp thêm của Trương Chu năm 808; Thành của Lý Nguyên Gia đắp năm 824 (thành nhỏ sát sông Tô Lịch này chắc vẫn gọi La Thành), năm 858 Vương Thức trồng cây táo gai, đào hào, trồng tre gai gia cố phủ thành (phủ thành đô hộ cũng gọi La Thành); năm 868, Cao Biền giữ phủ đắp La Thành.

Tám lần đắp hoặc sửa thành quanh vùng Hà Nội thời Bắc thuộc đều là những tòa thành trị sở của châu, của quận. Các tòa thành tựa như đều quan hệ tới tên La Thành. Các tòa thành đều do quan đô hộ người Trung Hoa đắp và không nghi ngờ gì nữa, kỹ thuật xây thành phải là phương pháp kỹ thuật Trung Hoa.

Các tòa thành ngày nay đều không còn di tích rõ ràng trên mặt đất. Giả hoặc có còn dấu tích đâu đó thì người ta hay lẫn lộn với các thành thuộc các triều đại Việt Nam từ thế kỷ 11 trở về sau.

Tư liệu bản đồ cổ, dù vẽ rất sai lệch, cũng không có. Tư liệu tham khảo duy nhất là bản đồ vẽ thời Hồng Đức (1470-1497), nhưng cũng chỉ còn những bản “tam sao” thời sau.

Như trên đã viết, tám lần sửa đắp thành của những quan cai trị người Hoa thời Bắc thuộc tới nay vẫn chưa ai chỉ rõ dấu tích là nơi nào của những di tích đang còn lại ở Hà Nội. Những phát hiện khảo cổ đó đây bấy nay vì còn rất ít, di vật thì ít ỏi, di tích thì phiến đoạn dù đã khiến người nghiên cứu có lúc đã reo mừng để đưa ra phán đoán táo bạo, nhưng rồi lại phải kết luận chờ đợi thêm chứng cứ.

Một tác giả người Pháp Cl. Madrolle đã từng rất táo bạo vẽ một sơ đồ vị trí các thành của Khâu Hòa, thành Trương Bá Nghi và thành của Cao Biền, đại khái là ở vùng Thủ Lệ, Quần Ngựa, Bách Thảo. Ông không nói rõ căn cứ khoa học (nhưng nhất định phải có căn cứ lập luận).

Thực ra những tòa thành đắp thời Bắc thuộc đúng là ghi chép quá ít, mơ hồ, dấu vết thực địa không còn, nhưng tòa thành do Cao Biền đắp được sử chép kỹ hơn, có nhiều triển vọng nhìn ra dấu vết dù là phiến đoạn. Phương pháp trước hết vẫn phải là phân tích điều ghi chép của sử cũ và cuối cùng trông đợi ở chứng cứ khảo cổ học.

Người xưa đã nói thật chí lý “tận tín thư bất như vô thư” (quá tin sách chẳng bằng không có sách).

Đúng vậy. Sách ghi về La Thành có chu vi 1982 trượng 5 thước bằng khoảng hơn 6 km, lại chép trong đó làm 40 vạn gian nhà. Tất nhiên, con số 40 vạn gian nhà ghi trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thật là sai số quá đáng.

Như vậy, kích thước chu vi của tòa thành, số lượng nhà làm trong thành là không đáng tin. Thế nhưng sử chép rằng, thành có làm lầu vọng địch môn lâu, ủng môn thì lại là điều đáng tin.

Ở nước ta, thành có xây ủng môn đầu tiên có lẽ là La Thành của Cao Biền. Thuật ngữ ủng môn cũng xuất hiện lần đầu tiên và cũng là duy nhất ở thành của Cao Biền.

Một đoạn tường thành đắp bằng đất không chứa các di vật khác thật rất khó xác định chủ nhân của di tích, nhưng một ủng môn của một tòa thành có thể cho phép đoán định rằng, người xây thành là người Trung Hoa xây dựng với kỹ thuật kiến trúc thành đặc hữu của Trung Hoa. Thế là tìm những yếu tố Trung Hoa trong thành cổ thành một phương pháp công tác hứa hẹn một thành quả tốt trong nghiên cứu thành cổ xây dựng thời Bắc thuộc trên đất Hà Nội.

Quanh La Thành, Hà Nội ngày nay, đây đó vẫn nghe thấy nhân dân nói tới di tích “đấu đong quân,” ví như quãng ngã tư phố Láng Hạ-La Thành.

Dấu tích không còn nữa nhưng người già làng Giảng Võ thì vẫn nhắc tới. Họ cứ truyền miệng giải thích cho nhau rằng, xưa kia có một loại công trình có tường bao khép kín dùng để lường quân số. Người ta cho quân xếp hàng kín công trình và đếm xem có bao nhiêu quân rồi dùng con số đó mà ước tính số quân của mỗi lần đứng kín công trình này. Công trình có công dụng như một cái đấu đong nên gọi là “đấu đong quân”.

Có một “đấu đong” nay còn đủ hình dạng để có thể dễ nhận rõ, đó là di tích ở khoảng cách dốc Bưởi chừng 500m đi về phía Cầu Giấy.

Di tích là một ô tường thành hình gần vuông. Quãng này có con đường cổ đi qua sông Tô Lịch về xứ Đoài xưa. Qua sông Tô chỗ này có cầu gỗ (nay đã thay bằng cầu bê tông chịu lực cao). Đường từ Bưởi qua đây về Cầu Giấy vốn là tường La Thành. Vì người Pháp đã trải nhựa thành đường ôtô nên quãng thành được giữ gìn khá nguyên vẹn. Sông Tô Lịch vốn là ngoại hào thiên nhiên của La Thành dù có biến dạng mức độ song vẫn tồn tại bám sát ngoài La Thành (tức đường nhựa).

Nơi có “đấu đong” này xưa mở một cửa thành gọi là Cửa Đoài (Đoài Môn tức Cửa Tây). “Đấu đong” là vùng tường thành nhỏ hình vuông, mỗi cạnh còn đo được là 52m, bọc quanh Cửa Đoài.

Cũng ở quãng này bên kia sông Tô Lịch là địa phận xã Đoài Môn. Xã này mang tên Đoài Môn vì đối diện với cổng Đoài bên kia sông. Vì tên cổng thành mà đặt tên xã.

Tấm Hoài Đức phủ toàn đồ vẽ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) vẽ rõ ràng vị trí “Đấu đong” rất đúng với vị trí thật trên thực địa.

Một bản đồ mới do Nguyễn Anh vẽ in trong sách “Lịch sử Thủ đô Hà Nội” năm 1960 điểm rõ ràng ranh giới xã Đoài Môn ở phía bờ Tây sông Tô Lịch. Thế là rất minh bạch, mấy chục hộ ở ven bờ Đông sông Tô khoảng “Đấu đong” là bộ phận xâm cư rất gần đây.

“Đấu đong quân” bên bờ Đông sông Tô được nhiều người biết nhưng thực chất “Đấu đong” là một “ủng thành” thì chưa ai được nghe giải thích, kể cả người có học ít nhiều.

“Ủng thành” theo định nghĩa của Từ Hải là thành bao bên ngoài cửa thành lớn để tăng cường sức phòng vệ của thành, xây hình tròn hay vuông tùy theo địa hình, mở một cửa nách bên phải hay trái tùy sự tiện lợi của thành.

Chức năng của “ủng thành” là bảo vệ mặt trước của cửa thành. Muốn vào thành phải qua cửa nách của “ủng thành”. Có “ủng thành” thì không ai có thể nhìn thấy trong thành.

Sách Toàn thư ghi về La Thành của Cao Biền có xây sáu ủng môn. Vậy “ủng môn” có khác gì “ủng thành”?

Thành nào cũng phải mở cửa, ít nhất là một cửa, thế nhưng không phải cửa thành nào cũng xây đắp “ủng thành”. Chỉ cửa nào có đắp “ủng thành” để bảo vệ mới gọi là “ủng môn.”

Cho nên có thể hiểu rằng, thành của Cao Biền có sáu cửa được xây “ủng thành” bảo vệ, có thể số cửa mở lớn hơn nữa.

Sáu “ủng môn” là những cửa nào, xưa nay chưa có ai chỉ rõ. Cho tới nay mới thấy một di tích ở Đoài Môn. Như trên đã viết, nhân dân ta vẫn gọi di tích “ủng thành” là đấu đong như vậy nơi nào được gọi là đấu đong đều có thể đoán định rằng đó là “ủng thành.”

Quãng ngã tư Láng Hạ-La Thành, nhân dân cũng gọi là “đấu đong”. Vết tích nay không còn gì, song chính ở nơi đây khảo cổ đã tìm ra một cửa của La Thành. Có thể nghĩ rằng cửa thành này trước đây có đắp “ủng thành” và cửa này chính là một “ủng môn.”

Thực địa cho phép khẳng định điểm mà bản đồ cổ ghi là “đấu đong” chính là một “ủng môn” của La Thành và đường Bưởi ngày nay chính là La Thành đắp từ thời Bắc thuộc. Cửa Đoài đã bị lấp để làm con đường thông đi Cầu Giấy, tường “ủng thành” cũng bị lấp sau nhưng vẫn còn thấy rõ ràng.

Đường qua sông Tô (đi sát tường phía Nam của “ủng thành”, có cầu qua hào) về xứ Đoài nay là đường trải nhựa, cầu nay là cầu bê tông trọng tải lớn.

Dù sao di tích “ủng môn” đã được quyết định giữ gìn tiến tới tu sửa.

“Ủng thành” Đoài Môn được coi là một phát hiện, có giá trị đóng góp vào việc tìm hiểu nghiên cứu về Thăng Long. Dù mới chỉ một địa điểm song chứng cứ khảo cổ học này sẽ giúp cho những ý kiến đoán định về những tòa thành thời Bắc thuộc trên đất Hà Nội tiếp cận chân lý thêm một bước./.

(Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long/Vietnam+)