Văn hiến Thăng Long trong đời sống tâm linh
|
|
Chùa Một Cột. (Nguồn: Internet)
|
Thăng Long là nơi tập trung nhiều đến chùa, đạo quán, lễ hội; người dân Thăng
Long tôn kính tất cả các vị thánh thần ân đức; các bậc anh hùng vì dân vì nước
được thờ phụng ở các chùa, đền, quán, miếu… Đây là những nét nổi bật biểu hiện
đời sống tâm linh của người dân đất kinh kỳ.
Dưới chế độ thống trị của phong kiến nước ngoài, nhân dân Việt Nam từng sống
trong đau khổ không có lối thoát. Khi đất nước đã giành được độc lập, nhưng ở
mỗi cuộc đời vẫn có những rủi ro không thể lường trước và cũng không thể giải
thích được. Tình hình trên tất yếu đẩy người ta vào con đường mê tín, trông chờ
sự cứu giúp của thần linh.
Ở thời đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Phật giáo, Đạo giáo rất được tôn sùng. Cả Phật
giáo và Đạo giáo đều có những điều răn dạy về hành vi đạo đức, giáo dục tình yêu
thương, cứu giúp lẫn nhau giữa người và người, do vậy những tôn giáo nói trên đã
dễ dàng lôi kéo được sự đồng tình, tin tưởng của nhân dân.
Về phía triều đình, để duy trì được trật tự xã hội và tiến hành mọi việc thuận
lợi, các triều vua nhận rõ sự cần thiết phải dựa vào lực lượng trí thức đương
thời. Bấy giờ đạo Nho chưa phải đã phổ biến trong quảng đại quần chúng nên chỗ
dựa chủ yếu phải nhằm vào đội ngũ trí thức trong Phật giáo và Đạo giáo, nhiều
người có học vấn cao.
Lý Công Uẩn sinh ra, lớn lên tại nhà chùa, được sư Khánh Văn nhận làm con, sư
Vạn Hạnh dạy dỗ. Rồi chính các nhà sư đã tích cực vận động đưa ông lên làm vua.
Cũng chính các nhà sư, với tư cách là trí thức đương thời, lại tiếp tục giúp ông
rất nhiều trong việc nội trị, ngoại giao. Không có gì khó hiểu, Lý Công Uẩn cũng
như các vua nhà Lý về sau đều là những người mộ đạo, trong khi toàn dân mộ đạo…
Việc tôn sùng quá mức Phật giáo, Đạo giáo dẫn đến chiều hướng phát triển mê tín
dị đoan cùng với việc xây dựng khắp nơi quá nhiều đền chùa, làm hao tổn nhiều
sức người, sức của. Nhưng Phật giáo, Đạo giáo cũng đem lại những nhân tố tích
cực, góp phần ổn định lòng dân, cổ vũ làm điều thiện, khai thác được nhiệt tình
vốn tri thức của giới sư tăng, đạo sĩ, thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt.
Sang đời nhà Trần, với sự sáng suốt của các vua Trần, nhất là với sự phê phán
của tầng lớp trí thức theo Nho giáo thì Phật giáo và Đạo giáo cũng dần dần bỏ
bớt được những điều mê tín, trở thành những nhân tố hợp lý trong văn hiến Việt
Nam.
Thăng Long là trung tâm văn hóa, hội tụ tinh hoa của bốn phương đất nước, nên
ngay từ thời Lý, khi mà “nhân dân quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có
chùa” (Lê Văn Hưu), thì Thăng Long cũng là nơi tập trung nhiều nhất những chùa
chiền, miếu mạo rải khắp kinh thành.
Thăng Long thời ấy có những ngôi chùa xây dựng quy mô lớn, kiến trúc độc đáo.
Chùa Diên Hựu như một bông sen lớn đồ sộ mọc giữa hồ, riêng cây cột đá đã cao 10
trượng (khoảng 30 mét). Tháp Báo Thiên 12 tầng, cao khoảng 80 mét, sừng sững bên
hồ Lục Thủy.
Thăng Long cũng có rất nhiều đạo quán. Tài liệu cũ cho biết thời thuộc Minh, ở
Đông Quan có trên 200 ngôi chùa và 200 đạo quán. Thời Mạc, nhiều đạo quán được
tu sửa và xây dựng thêm, có nhiều quán lớn nổi tiếng như Trấn Vũ Quán, Huyền
Thiên Quán, Đồng Thiên quán, Đế Thích quán.
Trong quá trình đi lên của đất nước, bên cạnh sự tồn tại của Phật giáo và Đạo
giáo, nhân dân ta phát huy hơn nữa truyền thống lâu đời của dân tộc, có sự quan
tâm đặc biệt đối với việc thờ cúng các vị anh hùng cứu nước và những người có
công lập ấp, dựng làng, hay trong việc sáng lập ra những ngành nghề ở các địa
phương.
Tín ngưỡng Việt Nam có đặc điểm là sự dung hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo, Đạo
giáo với tín ngưỡng dân gian. Đặc điểm này càng được thể hiện rõ trên đất Thăng
Long. Nguyên nhân sâu xa của sự dung hợp này là truyền thống yêu thương giúp đỡ
nhau trong nhân dân, là tinh thần khoan dung của dân tộc và thái độ không thành
kiến với những người khác mình về tư tưởng, quan điểm cũng như về tín ngưỡng...
Người ta không vì đạo này mà bác bỏ đạo kia, cũng không quan tâm và phân biệt
đâu là nơi thờ Phật, đâu thờ Tiên, thờ Thánh, thờ Thần. Nhiều đền trở thành quán
như đền Bích Câu. Nhiều quán trở thành chùa, như Đồng Thiên quán, Huyền Thiên
quán… Nhiều chùa ở Phật điện chẳng những có tượng Phật mà còn có cả tượng thần
Đạo giáo.
Bên cạnh Tam Bảo thường có cả điện thờ Mẫu. Đền Tam Giáo ở Thượng Cát (Từ Liêm)
còn 45 pho tượng các vị Phật, Thánh, Thần, Tiên tiêu biểu của cả ba giáo phái.
Hoặc như chùa Hưng Ký (phố Minh Khai ngày nay), mới xây năm 1932, là một quần
thể gồm cả chùa, đền, điện mẫu. Nơi nào cũng đều khói hương nghi ngút, được xem
là những chuyện bình thường.
Thăng Long có đền thờ thần núi (Tản Viên), thần sông (Tô Lịch). Có Thăng Long tứ
trấn, bốn ngôi đền thờ các vị thần trấn giữ bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Vị anh
hùng dân tộc Trần Hưng Đạo được suy tôn thành đức Thánh Trần được thờ ở nhiều
nơi (như ở đầu phố Lê Duẩn, đầu phố Hòe Nhai ngày nay).
Vị công chúa huyền thoại Liễu Hạnh được suy tôn là Thánh Mẫu và là người mẹ bất
tử, một trong tứ bất tử của Việt Nam, cũng có hàng trăm nơi thờ cúng ở Thăng
Long và cả nước, nổi tiếng gần đây là phủ Tây Hồ bên bờ Hồ Tây.
Nhân dân Thăng Long tôn kính tất cả các vị thánh thần ân đức. Các bậc anh hùng
vì dân vì nước được thờ phụng ở các chùa, đền, quán, miếu. Nhưng cũng có nhiều
người đổ xô đến những nơi vừa to đẹp, uy nghi, vừa nổi tiếng là rất thiêng có
thể đáp ứng mọi thỉnh cầu của con nhang đệ tử.
Người ta kéo đến phủ Tây Hồ để cầu xin được phát tài phát lộc, buôn bán gặp may,
mọi việc làm ăn thuận buồm xuôi gió… Người ta thề bồi trước đền Quan Đế (tức
Quan Công), vị thánh nổi tiếng về tiết tháo trung nghĩa và lòng dạ quang minh
chính đại, để mong thánh chứng giám. Các nho gia, sĩ tử thì đến đền Văn Xương
(thờ vị thần chủ về văn học) để tỏ lòng tôn kính và cũng để cầu xin ngài phù hộ
cho văn hay chữ tốt và đỗ đạt…
Trong không khí tín ngưỡng nói chung, hầu hết các xã thôn ở khắp các miền đất
nước đều có những ngày lễ hội. Thăng Long cũng như các nơi, có nhiều lễ hội ở
đình, chùa, đền, miếu thuộc các làng khác nhau. Nhưng lễ hội ở Thăng Long, nơi
tập trung nhiều người vừa giàu có, vừa có trình độ văn hóa hơn so với các nơi
khác trong toàn quốc, nên lại có nhiều nét đặc sắc.
Lễ hội ở Thăng Long thường được tổ chức bề thế, có quy mô tương đối lớn. Một số
lễ hội mang tính chất tiêu biểu của cả nước. Lễ hội Gióng được tổ chức ở nhiều
nơi (đều thuộc địa phận Hà Nội ngày nay) Phù Đổng, Xuân Đỉnh, Sóc Sơn, Chi Nam,
Thanh Nhàn.
Riêng hội Gióng ở Phù Đổng (Gia Lâm) lớn nhất có thể coi là long trọng, công phu
nhất trong các lễ hội cổ truyền Việt Nam. Để ôn lại sự tích Thánh Gióng đánh
giặc Ân, dân làng đã huy động vào cuộc diễn trận mấy trăm người trực tiếp tham
gia và mấy trăm người phục dịch hiện trường. Ngoài ra, hàng vạn người dân các
nơi xa gần đến dự.
Hội đền thờ Hai Bà Trưng được tổ chức ở nhiều nơi, tập trung ở đền Hạ Lôi (huyện
Mê Linh, Vĩnh Phúc) và đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ). Hội đền Đồng Nhân (ở quận
Hai Bà Trưng) tuy không phải là đền được xây dựng ngay trên những mảnh đất lịch
sử có gắn bó trực tiếp với sự nghiệp Hai Bà, nhưng cũng được tổ chức rất long
trọng. Đặc biệt do vị trí ở giữa kinh thành, nên trước đây nhà nước phong kiến
coi lễ hội Đồng Nhân là tế lễ của toàn quốc (quốc lễ) và cử quan về chủ lễ.
Lễ hội ở Thăng Long thường được thể hiện với những nội dung, ý nghĩa sâu sắc và
độc đáo, phần lớn các lễ hội đều thông qua việc diễn lại các tích xưa để nhớ đến
anh hùng liệt sĩ có công lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tái hiện những chiến
công hiển hách của dân tộc, vẻ hào hùng của quân dân ta đánh thắng quân xâm
lược.
Lễ hội đền Đồng Cổ bắt đầu khi vua nhà Lý cho rước thần trống đồng từ Đan Nê
(Thanh Hóa) về Thăng Long dựng đền thờ, đã để lại dấu ấn không phai mờ trong trí
tưởng tượng của người đời sau về quang cảnh cuộc lễ trang nghiêm, hùng tráng.
Trong cuộc lễ tất cả các quan lớn bé đứng trước án thờ thần và trước mặt đông
đảo người dự hội, trịnh trọng đọc lời thề trung hiếu.
Biết ơn và thờ cúng những anh hùng dân tộc trở thành một truyền thống của nhân
dân Việt Nam và nhân dân Thăng Long - Hà Nội. Ngay cả đến thời nhà Nguyễn, không
được nhắc tới công lao của nhà Tây Sơn thì nhân dân vẫn tổ chức ngày giỗ trận ở
Đống Đa. Đến những thập kỉ gần đây, mỗi độ Xuân về, người Hà Nội lại hồi tưởng
về một Thăng Long mùa xuân Kỷ Dậu 1789, Thăng Long đã góp sức cùng quân đội Tây
Sơn và nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại và hiển hách trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc.
Ngày nay, Hà Nội vẫn hàng năm thay mặt cho cả nước tổ chức lễ kỉ niệm chiến
thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, tưởng niệm Anh hùng dân tộc Quang Trung với niềm thành
kính thiêng liêng. Trong ngày hội, nhiều trò chơi dân gian, nổi bật là trò múa
rồng tái hiện cảnh nhân dân 9 xã quanh đồn Đống Đa đốt rơm tẩm dầu tạo thành
trận rồng lửa bao vây đồn giặc.
Về hình thức, lễ hội dân gian cổ truyền vẫn là tính chất hội làng, nhưng lễ hội
Thăng Long lại có những nét riêng của chốn phồn hoa đô hội.
Thăng Long có hội Láng với tích diễn Đốt pháo đấu thần khá độc đáo. Có hội đền
Đồng Nhân với nghi thức trang trọng tắm tượng bằng nước sông Hồng, với cuộc múa
đền và lễ dâng hương do đội nữ quan đảm nhiệm. Có hội tế trâu đất ở cửa ô Đông
Hà (phố Hàng Chiếu ngày nay), hội cờ ở Đông Ba (Thượng Cát, huyện Từ Liêm).
Có trò chơi hất phết ở Đông Đồ (huyện Đông Anh), cướp cầu ở Thúy Lĩnh (huyện
Thanh Trì), đấu võ ở Đông Dư (huyện Gia Lâm) và rất nhiều trò chơi khác ở các
hội làng: thi thổi cơm, thi dệt vải, thi bơi thuyền… thể hiện tính phong phú và
hình thức đặc sắc của lễ hội Thăng Long./.
GS Vũ Khiêu (Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến)