Hà Nội trước Cách mạng Tháng Tám: Khu phố Pháp
|
|
Tòa nhà Bộ Giao thông vận tải (nằm ở góc phố Quán sứ và đường Trần Hưng Đạo). (Nguồn: Chinhphu.vn)
|
Sau khi chiếm Hà Nội, biến Hà Nội thành nhượng địa, thực dân Pháp bắt đầu xây
dựng đường sá, nhà cửa ở thành phố theo quy hoạch đô thị mới. Mốc thời gian có
thể tính từ tháng 10/1874.
Tái hiện đời sống người Hà Nội những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực
dân Pháp chiếm thành Hà Nội, bằng thể loại văn ký sự đậm đặc chất tư liệu, Cuộc
sống Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Hoài Anh đã phản ánh về muôn
mặt đời thường của Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 1873-1943. Xin trân
trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số bài viết trong cuốn sách này.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khu phố Pháp nằm trong khoảng bốn con đường lớn
là Paul Bert (nay là Tràng Tiền), Rollandes (Hai Bà Trưng), Carreau (Lý Thường
Kiệt) và Gambetta (Trần Hưng Đạo) đã được thi công theo phương pháp châu Âu, làm
đường nhựa trước, nhà sau.
Đường Paul Bert (Tràng Tiền) lúc đó được coi là “phồn sinh,” vì nhà gạch đã được
xây nhiều. Có hàng quán do Tây và do Hoa kiều mở để phục vụ quân đội xâm lược.
Lúc ấy tính bề dài của các phố ta cũ chỉ có 45km, sau khi mở rộng thành phố, đến
năm 1905 thì các phố dài 81km. Lúc này mạng lưới đường Hà Nội thuộc khu vực Ba
Đình, Hoàn Kiếm hiện nay và phía Nam tới đường Lý Thường Kiệt hiện nay đã được
trải nhựa
Tuy là thủ phủ của xứ Đông Pháp, nhưng Hà Nội thời bấy giờ cũng chỉ là một thành
phố nhỏ, dân số từ 28-30 vạn người. Địa thế cũng hẹp. Ngang dọc có thể tính thế
này, phía bờ sông Hồng từ đầu ô Yên Phụ đến nhà thương Đồn Thủy (Bệnh viện Quân
y 108 hiện nay). Từ cột Đồng Hồ (phố Trần Nhật Duật hiện nay) chiếu đường chim
bay đến đầu phố Đội Cấn bây giờ.
Còn từ trung tâm đi ra thì phía Tây Bắc đến trường Bảo hộ (bây giờ là trường Chu
Văn An); phía Nam đến Ngã tư Vọng, Ngã tư Trung Hiền (chợ Mơ) và Ngã tư Sở. Nội
thành là nơi có phố, phố có biển tên, hai bên có nhà gạch (có gác hoặc không) và
ban đêm có đèn điện soi sáng đường sá…
Theo bản đồ Hà Nội năm 1831, Hà Nội có 16 cửa ô là Yên Hoa (hay Yên Phụ); Yên
Tĩnh (hay Yên Định); Thạch Khối (hay Nghĩa Lập); Phúc Lâm (hay Tiền Trung); Đông
Hà (Quan Chưởng); Trừng Thanh (ở Hàng Chĩnh); Mỹ Lộc (ở Hàng Mắm); Đông Yên (ở
phố Lò Sũ gần chợ Hàng Thùng); Tây Long hay Trường Long (gần Đồn Thủy ở phố
Tràng Tiền); Nhân Hòa (trên bản đồ năm 1873 không còn); Thanh Lãng hay Yên Lãng
(Đống Mác) ở phía Đông thành; Yên Ninh hay Thịnh Yên (Cầu Dền); Kim Hoa hay Kim
Liên; Thịnh Quang hay Thịnh Hào (ô Chợ Dừa) ở phía Nam thành; Thanh Bảo (Kim
Mã); Thụy Chương (Thụy Khuê) ở phía Tây thành.
Sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, biến Hà Nội thành nhượng địa, xây dựng đường
phố, nhà cửa theo quy hoạch đô thị mới, do đó các cửa ô bị lấp dần đi chỉ còn
lại: ô Quan Chưởng, Cầu Dền, Đống Mác, Kim Liên, Chợ Dừa, Cầu Giấy, Kim Mã, Thụy
Khuê, Yên Phụ. Các cửa ô này nằm trên vành đai bao quanh nội thành.
Người Pháp lại xây dựng một con đường vòng (route circulaire) bao bọc lấy thành
phố - có lẽ để dùng vào mục đích quân sự. Nếu ô Yên Phụ là đầu đường thì nó là
con đường hiện nay chạy qua Quảng An, Quảng Bá, Nhật Tân, theo bờ hồ Tây về chợ
Bưởi, xuyên sang ô Cầu Giấy, vòng làng Láng đến Ngã Tư Sở, rồi thẳng đi Ngã Tư
Vọng, Ngã Tư Trung Hiền ra bờ sông.
Năm 1899, thành lập khu vực ngoại thành Hà Nội gồm các xã thuộc huyện Vĩnh Thuận
(phủ Hoài Đức), một số xã thuộc huyện Từ Liêm (phủ Hoài Đức) và huyện Thanh Trì
(phủ Thường Tín)…
Hà Nội cũ với dân số chừng ấy, diện tích như vậy là rộng rãi. Quanh năm ngày
tháng, lúc nào và hầu như phố nào cũng có nhà trưng biển (dài rộng chừng
30-40cm): “Nhà cho thuê” hoặc “Gác cho thuê.” Cho nên còn nhiều đất “bỏ hoang.”
Ngay khu vực trước lễ đài Ba Đình hiện nay, qua một mặt phẳng đường nhựa cũng là
bãi cỏ. Khu vực quanh Đấu xảo (Cung Văn hóa Hữu nghị bây giờ) cũng là bãi hoang.
Cái phố gần hồ Thiền Quang cũng mới có sau này, gọi là phố Halais, sau năm 1954
vẫn có nhiều người quen gọi tên hồ là hồ Hale!
Ở những khu vực “xa xa” như chợ Đuổi (cuối phố Bà Triệu bây giờ) chạy sang phía
bến xe điện Kim Liên sau đó khi ấy đều là bãi rác… Quãng phố Bạch Mai còn đứt
đoạn nhiều chỗ không có nhà cửa. Vùng bến ôtô Kim Liên đến miếu Hai Cô cũng là
những bãi lầy, bèo sen vì nó là chỗ bắt đầu của hồ Bảy Mẫu…
Trong thời Pháp tạm chiếm (1947-1954) số dân có phần đông hơn, Pháp-Mỹ có làm
thêm một số nhà ở, mà khi ta tiếp quản thành phố còn thấy ở khu Lương Yên, gần
phố Tô Hiến Thành, phố Vĩnh Hồ (Ngã Tư Sở)…
Đường phố Hà Nội có nhiều cách gọi, phố (rue), ngõ (ruelle), ngõ cụt (impasse)
như ngõ cụt Tạm Thương, ngõ Yên Thái. Đường phố dẫn đến một dinh thự nào đó thì
nó gọi là “Avenue,” tỷ như phố Tràng Tiền của ta bây giờ gọi là Avenue Paul Bert
- vì đường phố này dẫn đến nhà hát Tây, một dinh thự. Hoặc phố Trần Hưng Đạo
hiện nay, hồi đó là Avenue Gambetta - vì nó dẫn đến nhà ga Hà Nội.
Đường phố rộng có trồng cây hai bên gọi là boulevard, phố Phan Đình Phùng, phố
Phùng Hưng, phố Hàng Đẫy ngày nay đều là những boulevard khi đó. Ngoài ra còn có
đường (voie) là những đường phố chưa có vẻ là phố. Phố Hàng Bột khi ấy là voie
Soeur Antina… Hà Nội lại còn xóm (cité) nữa. Xóm Hạ Hồi khi đó được gọi là cité
Jauréguiberry.
Tên các phố lớn và vườn hoa thì phần nhiều lấy tên những tay thực dân có công
đánh chiếm hay bóc lột. Những phố đó thường gọi là “phố Tây,” vì hầu hết là Tây
ở. Còn “phố Ta” ở khu vực “36 phố phường” xưa thì vẫn giữ chữ “hàng” như Hàng
Ngang, Hàng Đào, Hàng Chĩnh, Hàng Nón, Hàng Hòm.../.
(Chinhphu.vn/Vietnam+)