Độc đáo lễ hội năm làng Mọc xưa
|
Nằm bên bờ Nam sông Tô là những làng Mọc cổ thuộc đất xã Nhân Mục xưa, gồm
năm làng Giáp Nhất, Chính Kinh, Cự Lộc, Quan Nhân và Phùng Quang (Phùng Khoang).
Xưa dân làng Mọc chọn năm nào phong đăng hòa cốc, dân khang, vật thịnh sẽ
mở hội.
Hội năm làng được tổ chức rất trọng thể với nhiều nghi thức, trò diễn hấp dẫn.
Các già làng cho rằng lễ hội năm làng được tổ chức nhằm rước các Thánh du xuân
và thưởng lãm cảnh quan năm làng; năm làng vẫn giữ qui ước, lệ như xưa là đến kỳ
Đại hội Năm làng Mọc sẽ vẫn cùng nhau tổ chức Lễ hội và rước sách tế Thần cầu
cho quốc thái dân an...
Chuẩn bị lễ hội
Lễ hội năm làng được tổ chức chính vào ngày 11/2, nhưng thực ra chương trình lễ
hội đã bắt đầu từ trước đó khá xa, rục rịch từ tháng chạp người ta đã sắm sửa,
chỉnh trang lại đình chùa, miếu mạo.
Từ cuối tháng chạp, các làng đã chuẩn bị những đồ lễ phục vụ cho Tết Nguyên đán
và hội sắp tới. Đến cuối tháng giêng, tất cả những chủ ruộng ngô trên khắp cánh
đồng và sông Tô trước cửa đình đã được thông báo trước để không trồng ngô từ đầu
vụ, khu đó để dựng rạp làm hàng quán bán hàng trong dịp hội về. Thậm chí,
sông Tô Lịch vào ngày hội cũng là những hàng quán được mở ra dưới lòng sông.
Xung quanh khu vực đình - trung tâm tổ chức lễ hội năm làng, người ta dựng các
lều quán san sát từng gian một. Chỗ này tổ tôm điếm, chỗ kia đánh cờ người, nơi
biểu diễn tuồng chèo, nơi đấu vật, đấu roi, nơi biểu diễn xiếc, quanh ao đình có
chuẩn bị các trò đi cầu treo, đáo đĩa, bắt vịt dưới ao, bên kia ruộng sâu chơi
bịt mắt bắt dê... Khu vực trước cửa đình phía tay phải người ta dựng một bàn cờ
rộng tới vài trăm mét vuông bằng sàn tre nứa để chơi cờ người. Các sòng bạc như
thò lò, sóc đĩa, tôm cá, bài Tây mang tính chất thua được mở ra rất nhiều; ngày
đêm mọi người qua lại vẫn đông đúc. Hội kéo dài chừng hơn nửa tháng mới thôi.
Các nghi lễ chính
Lễ hội chính thức từ mùng 10 đến 12/02 âm lịch. Trong suốt thời gian làng vào
đám, mỗi tối dân làng ở đây có cụ từ và ban tổ chức điều hành hội dâng trầu cau,
rượu và hương hoa cúng thần.
Ngày 11/2 là ngày rước chính hội. Đám rước bao gồm nghi trượng đủ bộ, kiệu
Thánh, kiệu Long Đình, đội múa sinh tiền, trống bản, Rồng, Sư tử, quan viên chức
sắc...của năm làng tập trung về trung tâm hội vào sáng 11/2.
Đình làng Giáp Nhất đã trang hoàng cờ hoa, đèn nến rực rỡ, khói hương nghi ngút
tạo thêm sức truyền cảm linh thiêng.
Tiếng pháo hiệu nổi lên cũng là lúc các chân kiệu vào vai bắt đầu cuộc rước. Đi
đầu là năm lá cờ ngũ hành do năm người rước theo ý nghĩa tượng trưng cho năm
hành kim-mộc-thủy-hỏa-thổ. Kế đến là đội múa cờ có 4 người vác bốn cây cờ múa
thay đổi nhau. Tiếp theo là trống, chiêng mỗi thứ lại có hai người khiêng và một
người chấp hiệu tay cầm chịch để đánh, cứ một tiếng trống lại điểm một tiếng
chiêng. Tiếp theo là đội sư tử có sáu người, vừa để dẹp đường, vừa để biểu diễn
những trò vui khỏe tượng trưng cho tinh thần thượng võ của dân tộc. Một người
múa côn, một cầm đầu, một cầm đuôi sư tử. Có thêm hai người ngồi trên xe đánh
trống lạo bạt được tết lá dừa và cài hoa giấy cho đẹp.
Rồi đến ngựa hồng, ngựa bạch do một nhóm thiếu niên chừng 13, 14 tuổi vừa kéo,
vừa đẩy. Voi cũng do người kéo người đẩy đi theo. Qua chỗ voi ngựa là đến phường
đánh bồng, có bốn người múa đều là nam, trong đó có hai người mặc giả gái biểu
diễn. Đi cùng phường bồng có hai người, một đánh trống khẩu, một thanh la. Tiếp
đến là hương án do bốn người khiêng, khi mỏi có thêm bốn người khác thay đổi.
Trên hương án bày biện cây vàng, cây bạc làm bằng tre nứa dán giấy màu, ở giữa
có mâm ngũ quả, đèn nến. Đội phật tử có độ hai mươi người, là những phụ nữ có
tuổi, chít khăn, mặc áo dài nâu, quần thâm, tay cầm phướn, tay lần tràng hạt.
Dẫn đầu đoàn này là vị sư trưởng chùa làng đầu đội mũ hoa sen (mũ Thất phật),
khoác áo cà sa, tay lần tràng hạt. Có một vị cầm lọng vàng che cho vị sư trưởng.
Đội mang bát bảo đầu đội khăn chụp, mặc áo sa lam, tay bưng nghi trượng, biển
dấu đề “tĩnh túc” nghĩa là yên lặng, cung kính và biển đề “hồi tỵ” nghĩa là
tránh đi. Có thể ví đám rước như là biểu tượng cho sự hành quân nên có biển đề
chỉ dẫn, còn các nghi trượng khác đều là khí giới để hành quân.
Phường đồng văn có một trống khẩu, một thanh la và bốn trống bản, đánh trống phụ
họa theo tiếng trống khẩu, thanh la... Tuy nhiên cũng có làng, trong phường đồng
văn còn có hai người múa sinh tiền đi trước, vừa đi vừa múa, mặc y phục rực rỡ.
Sau đến Long đình do bốn người khiêng và bốn người đi kèm để thay đổi, hai người
đi hai bên cầm lọng vàng che rất tôn nghiêm. Trong Long đình có đặt bát hương,
ngũ quả và hai con hạc thờ nhỏ. Sau Long đình là đội quân cờ, dẫn đầu là ông
Tổng cờ và bà Tổng cờ. Mỗi người được che hai lọng xanh; tiếp đến là Tướng ông,
Tướng bà, mỗi người được một lọng xanh che. Tướng và sỹ được mặc áo gấm tỏ rõ là
hàng tôn quý, còn lại mặc theo quy định chung. Quân cờ cả thảy có 32 người, 16
nam, 16 nữ.
Đội Lộ bộ (có nơi gọi là lỗ bộ) gồm 8 người vác, đi liền là đội tế có chừng 15
đến 20 người, đội mũ tế, áo thụng, đi hia. Phường bát âm do 08 người biểu diễn
với các nhạc cụ như đàn, sáo, nhị, kèn, cảnh... thường cử theo các điệu lưu
thuỷ, ngũ đối, hành vân... trong lúc đi rước. Sau phường bát âm là một người vác
cờ thần; cờ làm bằng lụa màu thêu chỉ kim tuyến. Tiếp đến là biển thần có lọng
vàng che theo sát, đây là những biểu hiệu sự uy tín, linh thiêng của thành hoàng
làng mình. Tiếp theo có ba người cầm kiếm quất (kiếm thần) đi trước kiệu, mình
mặc áo gấm. Những người được kén chọn mang kiếm phải là con nhà gia thế trong
làng, một người đứng giữa đi giật lùi theo chân kiệu, hai người đứng hai bên đi
ngang, rất cầu kỳ.
Tiếp đến là kiệu Thánh còn gọi là kiệu Bát cống, thêm hai cái tàn, có tám người
hộ vệ thay đổi lúc mệt nhọc, đi liền có hai quạt vả che kiệu do bốn người mang;
lại có hai quạt giấy, loại quạt đại vẽ rồng phượng che kiệu do hai người vác hai
bên kiệu. Trên kiệu có đặt ngai và thần vị của đức Thành hoàng làng. Kiệu thánh
có một người cầm trống khẩu, chính là người được chọn làm khởi chỉ, có 4 người
đi sau gọi là đi phù giá. Rồi đến những quan viên, chức sắc hoặc có phẩm hàm
trong làng cùng các bô lão được đi hầu sau kiệu mặc áo thụng gọi là đi hộ giá,
người có phẩm hàm mặc áo Bố tử thêu hoa văn theo cấp bậc để phân biệt, được che
lọng xanh và có người nhà theo hầu.
Đội múa rồng thì đi vòng từ trên vòng xuống, xuôi ngược từ dưới lên. Lại thêm
phường chèo hoá trang như đóng tuồng đi đón đường. Những người này tự do đi lại,
lên xuống nhưng chỉ múa không hát. Đội Rồng có chừng 8 người và phường chèo có 6
người tham gia. Đội Thể sát của làng có 8 người, chít khăn lượt, mình mặc áo dài
the, thắt lưng nhiễu điều, quần trắng, đi giày vải; tay cầm cờ đuôi nheo hoặc
tay thước; người thì cầm hiệu làm bằng sừng trâu hoặc vỏ ốc biển rất to, thỉnh
thoảng lại rúc lên một hồi. Những người cầm cờ hiệu đi điều khiển chung cho đội
hình rước và giữ trật tự đảm bảo đám rước không bị gián đoạn. Còn một người cầm
loa bằng đồng theo đoàn rước để chỉ huy đội hình.
Đoàn rước của làng đăng cai Giáp Nhất ra tới ao Nghè thì dừng lại chờ các làng
anh em rước đến cho đủ, rồi cùng hoà nhập bốn đoàn thành một theo thứ tự Giáp
Nhất, Cự Lộc, Chính Kinh, Quan Nhân, Phùng Khoang, tiến về trung tâm lễ hội tại
đình làng Giáp Nhất.
Đoàn rước về đến đình Giáp Nhất thì nghỉ ngơi trầu nước để chuẩn bị vào Tế lễ.
Đến giờ hành lễ - Tế hội đồng do quan viên chức sắc của năm làng đã họp và phân
vai, sau ba hồi ba tiếng trống báo hiệu thì bắt đầu các nghi thức tế lễ.
Đến chiều 11/2 các làng làm lễ tạ, các ngai Thánh cùng Thần vị được cụ từ và một
số giai kiệu, chức sắc vào làm lễ rồi đưa ra kiệu để rước Thánh trở về làng của
mình gọi là rước Thánh hồi cung.
Ngoài phần lễ là đến phần hội, với những trò chơi dân gian thú vị.
Đặc sắc nhất vẫn là tổ chức đánh cờ người bên bờ sông Tô Lịch, ngay cạnh lại có
nhà Khảo cờ. Bên kia bờ ao đình người ta còn chơi trò đi cầu treo, bắt vịt dưới
ao, rồi trò đập niêu, đánh đáo đĩa, khu thì quây lại chơi trò tổ tôm điếm; lại
thêm các trò bịt mắt bắt dê, chọi gà, đánh đu, đấu kiếm, đấu quyền, đấu roi,
đánh vật./.
(Hanoi Portal/Vietnam+)