Ai trao “sổ đỏ” thành Đại La cho Lý Công Uẩn?
|
|
(Ảnh minh họa: Internet)
|
Đại La vốn là một thành hướng bắc, nhưng đến tháng 7/1010, khi Lý Công Uẩn
chọn làm kinh đô Thăng Long, đã là một tòa thành hướng nam độc lập tự chủ. Giới
chuyên môn cho rằng với 5 tháng chuẩn bị, việc xây dựng một kinh đô mới là không
tưởng.
Vậy nền tảng vật chất cho kinh đô mới Thăng Long đã được chuẩn bị từ trước? Quá
trình này được tiến hành như thế nào?
Bài viết sau đây của tiến sĩ Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á
đưa ra một cách lý giải về điều này.
Chuẩn bị dời đô chỉ trong 5 tháng
Tháng 7 âm lịch năm 1010, thuyền rồng đưa triều đình nhà Lý từ Hoa Lư cập bến
dưới chân thành Đại La.
Theo biên niên sử, ý tưởng dời đô có thể hình thành thực
sự từ mùa xuân năm đó. Vốn là, sau khi lên ngôi cuối năm 1009, Lý Công Uẩn thu
xếp việc triều chính, làm lễ lên ngôi, ăn Tết ở Hoa Lư rồi tháng hai năm 1010 về
thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh).
Đối với Lý Công Uẩn, ý tưởng tái lập nơi đặt bộ máy điều hành đất nước ở vị
trí trung tâm đồng bằng sông Hồng là trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa của
đất nước đương thời hẳn đã hình thành từ lâu, nhưng thời điểm mang tính quyết
định việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La có xuất phát điểm là chuyến thăm quê vào
mùa xuân năm 1010.
Chúng ta đều biết, Lý Công Uẩn người gốc Giao Châu, được giới thiệu sung cấm vệ
quân từ năm 1000, dưới triều nhà Tiền Lê.
Cuộc sống của viên tướng cấm vệ, rồi lấy vợ, sinh con (Lý Phật Tử) đã gắn liền
ông với kinh đô Hoa Lư. Tuy nhiên, ngay sau khi lên ngôi, ông đã về thăm quê và
hình thành rất nhanh quyết định dời đô.
Chỉ ba tháng sau khi thăm quê, tức vào tháng 5/1010, ông đã hoàn chỉnh kế hoạch
dời đô và chính thức tuyên bố trước triều đình bằng "Chiếu Dời đô". Như vậy,
công cuộc thực sự chuẩn bị cho dời đô chỉ diễn ra trong vòng năm tháng (từ tháng
2 đến tháng 7/1010).
Sử sách ghi nhận, ngay khi chuyển về kinh đô Thăng Long, triều đình đã ổn định
được ngay. Còn những ghi chép sau đó về việc xây dựng thêm các cung điện chỉ
nhằm mở rộng hoạt động của triều đình. Điều đó chứng tỏ tòa thành Đại La khi trở
thành kinh đô Thăng Long (tháng 7/1010) đã là một kinh đô Đại Việt được chuẩn bị
hoàn tất.
Sự chuẩn bị này có thể được tăng cường từ tháng 5, tức sau "Chiếu Dời
đô". Tuy nhiên, khoảng thời gian ngắn ngủi - chưa đầy 2 tháng - không thể đủ
cho việc xây dựng một kinh đô mới.
Vậy nền tảng vật chất cho kinh đô mới Thăng
Long hẳn đã được chuẩn bị từ trước đó.
Thời Lý Bí đã chọn mảnh đất Hoàng thành làm trung tâm
Lịch sử của việc chọn mảnh đất Hoàng Thành làm trung tâm đất nước được bắt đầu
với lũy thành Tô Lịch của Lý Bí trong cuộc chiến chống quân Lương thế kỷ 6.
Đây là lũy thành quân sự được Lý Nam Đế xây dựng từ trước. Và sau khi thất trận
ở Chu Diên (vùng Hưng Yên, Hà Nam), quân đội nước Vạn Xuân đã rút về cố thủ tại
đây.
Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng để khẳng định lũy thành này là kinh đô của
nước Vạn Xuân đương thời. Thế nhưng, do hoạt động của triều đình nước Vạn Xuân
dày đặc ở vùng quanh Hà Nội ngày nay như Long Biên, Ô Diên, Dạ Trạch... nên sau
khi bình định lại Giao Châu, xuất hiện một huyện mới là Tống Bình.
Tên huyện Tống Bình tương truyền do nhà sơ Tống (một trong số Lục Triều – sáu
triều đại thay nhau trị vì Trung Quốc sau thời Tam Quốc, thế kỷ 4-6) đặt ra,
trong đó có một phần Hà Nội ngày nay.
Đầu thế kỷ 7, thứ sử nhà Tùy là Khâu Hòa đã đặt thủ phủ Đô hộ Giao Châu ở Tống
Bình và xây thành lũy đô hộ phủ đầu tiên ở kề sông Tô Lịch vào khoảng thời gian
đó. Tòa thành của Khâu Hòa có tên là “Tử thành”.
Tử thành (hay Tử Cấm thành) là cách gọi những vòng thành trung tâm trong cùng để
bảo vệ vua và hoàng thất. Ở Giao Châu, đó là nơi che chở cho bộ máy đô hộ cao
nhất, nơi ở và điều hành của thứ sử.
Các nhà sử học cho rằng vị trí “Tử thành” hẳn đã được chọn tâm điểm ở ngay trên
gò Nùng, nay là vị trí điện Kính Thiên. Các đời về sau, cũng duy trì điểm cao
tâm linh đắc địa này. Dấu vết gạch ngói, giếng nước có niên đại Tùy Đường khai
quật được ở khu vực Hoàng Thành gần đây đã xác nhận sự có mặt của kiến trúc Tùy
Đường trong Hoàng Thành.
Thành La rồi Đại La sau này được nhiều đời thứ sử tu bổ, mở rộng. Họ tập trung
vào việc xây dựng vòng thành bao bên ngoài Tử thành (vòng thành hiện nay còn lại
dấu vết, trên đó có những đoạn trùng với tòa thành vô băng xây dựng vào đời
Nguyễn) và vòng đê thành bao dọc theo sông Tô Lịch-sông Hồng, mở rộng hơn về
phía tây và phía nam Hoàng thành.
Tiêu biểu nhất đối với thành Đại La là công cuộc hoàn thiện của Cao Biền cuối
thế kỷ 8 đầu thế kỷ 9.
Vì sao các tòa thành theo hướng bắc?
Chúng ta cần nhớ rằng tòa thành Đại La bắt đầu từ Khâu Hòa đến Cao Biền được xây
dựng theo thể chế thành trì địa phương của đế chế Tùy, Đường. Điều đó có nghĩa
là các mặt chính của tòa thành và dinh thự hành chính đều hướng về nơi Hoàng Đế
nhà Tùy, Đường ngự trị.
Thành Đại La cũng như thành Luy Lâu do Sĩ Nhiếp đắp trước đó đều là thành hướng
bắc.
Dựa vào ghi chép trong "An Nam chí lược" và "Việt Sử lược" (sách viết vào khoảng
đời Trần) thì tòa thành Đại La do Trương Bá Nghi và Cao Biền đắp đều có bốn mặt
hướng đông, tây, nam, bắc.
Ghi chép của "An Nam chí lược" về tòa thành do Trương Bá Nghi đắp cho biết mặt
thành phía bắc là mặt chính, mở ba cửa và trên đó đều có lầu che. Hai mặt đông
tây cũng có ba cửa không lầu che. Riêng mặt nam là mặt thông với khu dân cư mở
tới 5 cửa trên đặt trống, loa. Như vậy, cũng giống như Luy Lâu, mặt nam thành
tuy là mặt phụ nhưng lại dành cho các hoạt dộng dân cư, còn mặt chính mang tính
nghi lễ hướng về phía bắc.
Tòa thành xoay hướng nam từ bao giờ?
Trong lịch sử Việt Nam, “sự hướng bắc” của thành Đại La gắn liền với bộ máy thần
phục ở Giao Châu với nhà Đường.
Do Nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng rối loạn, Nam Bắc triều, Ngũ
Đại-Thập Quốc, các thế lực hào trưởng Giao Châu nổi lên chiếm quyền Tiết độ sứ,
như cha con họ Khúc (Thừa Dụ, Thừa Mỹ), họ Kiều (Công Tiễn), họ Dương (Đình
Nghệ).
Các Tiết độ sứ này tuy là người Giao cát cứ nhưng trên danh nghĩa vẫn thụ phong
và thần phục các triều đình Trung Hoa. Vì vậy, trước khi Ngô Quyền xưng vương
(939), tòa thành Đại La vẫn là một tòa Đô hộ phủ hướng bắc. Có lẽ, đó là lý do
Ngô Quyền không chọn Đại La làm kinh đô mà chọn Cổ Loa, một tòa thành hướng nam.
Thành Đại La gần như bỏ hoang từ những năm 939 đến khi Đinh Tiên Hoàng thống
lĩnh thiên hạ lập nước Đại Cồ Việt. Tuy nhiên, kinh đô nhà Tiền Lê lại được chọn
đặt ở nơi hiểm yếu Hoa Lư đất Trường Châu (Ninh Bình hiện nay).
Thành Đại La với cương vị trung tâm quản lý, điều hành mọi sự ở Giao Châu được
giao cho Đô hộ phủ Thái sư Lưu Cơ, người đồng hương và cũng là tên đứng đầu
trong hàng quan được danh xưng trong buổi lễ lên ngôi Hoàng đế của Đinh Tiên
Hoàng.
Vai trò của Lưu Cơ vì thế có thể sánh ngang hàng Phó Vương, giúp Đinh Tiên
Hoàng cai quản phần đất trọng yếu và nhiều tiềm năng kinh tế nhất của đất nước
đương thời, đó là toàn bộ miền Bắc nước ta từ Ninh Bình trở lên.
Cuộc đời và sự nghiệp Lưu Cơ
Theo thần tích và ghi chép trong sử sách thì Lưu Cơ người Ái Châu (vùng đất có
lúc bao gồm cả khu vực Thanh Hóa và Ninh Bình hiện nay), quê ở Bồ Bát, Bạch
Liên, Yên Mô tức thuộc đất Ninh Bình. Ông là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh,
Nguyễn Bặc, Lê Hoàn.
Thiếu thời, Lưu Cơ theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha
mẹ mất, ngoài 20 tuổi, ông theo Đinh Bộ Lĩnh đánh giặc, trực tiếp
dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại.
Trong buổi thiết triều xưng danh quan tước đầu tiên của triều đình nhà Đinh,
theo "Việt sử lược", ông đứng tên đầu và được trao chức Thái sư Đô hộ phủ, cai
quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi
đó ông chừng 30 tuổi.
Lưu Cơ làm quan đến gần 70 tuổi thì cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì
mất, thọ 73 tuổi.
Hiện, đền thờ ông còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại
cũ). Tương truyền, đây là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân Lý Khuê năm xưa.
Theo giới chuyên môn thì Lưu Cơ là người đầu tiên biến tòa thành Đại La thuộc
địa hướng bắc trở thành một tòa thành hướng nam độc lập tự chủ. Vì khi đó, Hoàng
Đế Đại Việt ở Hoa Lư, tức ở về phía nam tòa thành Đại La. Điều này đồng nghĩa
với việc mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ cũ phải
được sửa đổi.
Ðây chính là lý giải hợp lý nhất cho sự phong phú di tích kiến trúc Hoa Lư tại
các cuộc khai quật Hoàng Thành Thăng Long gần đây.
Vai trò của Lưu Cơ trong sự kiện 1000 năm Thăng Long
Theo ghi chép của thần phả, thần tích thì có lẽ Lưu Cơ trông coi tòa thành này
cho đến khi cáo quan về hưu.
Như vậy, chẳng những Lưu Cơ là người đã cai quản và tu sửa thành Đại La của An
Nam Đô hộ Phủ nhà Đường trở nên một tòa thành Đại Việt, mà ông còn là người
chuẩn bị mọi điều kiện cơ sở hạ tầng cho cuộc dời đô của Lý Công Uẩn. Điều
này giải thích tại sao chỉ trong một thời gian rất ngắn, triều đình nhà Lý đã có
thể di chuyển từ Hoa Lư ra Thăng Long.
Và, chính Lưu Cơ là người đã trao chìa khóa và “sổ đỏ” tòa La thành Đại Việt
cho Lý Công Uẩn sau hơn 40 năm trông coi, tu tạo tòa thành này.
Với ý nghĩa đó, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, chúng ta không thể quên vị
Thái sư người Ái châu đáng kính này./.
Tiến sĩ Nguyễn Việt-Nguyễn Mạnh (Vietnam+)