Tản mạn về Tết cổ truyền người dân Việt Nam
|
|
Lễ cúng giao thừa. (Nguồn: afamily.vn)
|
Tết Nguyên Đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt
Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu
kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây.
Tết Nguyên Đán Việt Nam từ buổi "khai
thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông và quan niệm
"ơn trời mưa nắng phải thì" chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam...
Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao
cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý và tình nghĩa xóm
làng.
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp dưới mái ấm
gia đình. Nhiều người muốn được thăm viếng mồ mả và khấn vái trước bàn thờ tổ
tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong
thời niên thiếu.
Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn, kỷ niệm thời niên
thiếu có thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân nhà. "Về quê ăn Tết" đã trở thành
thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Là Tết cổ truyền của dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Nam
hoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức,
nhiều phong tục tập quán (địa phương) khác nhau. Tuy nhiên, phong tục Tết vẫn
gồm những phần chính cơ bản sau.
Giao thừa
Lẽ trời đất có khởi thủy phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết
thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa.
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của
Đào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới
đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc chuyển giao giữa hai năm cũ,
mới này, có lễ trừ tịch
Lễ Trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này,
người dân Việt Nam theo cổ lệ có làm lễ Trừ tịch. ý nghĩa của lễ này là đem bỏ
hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới
sắp đến.
Lễ Trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ," do đó có từ "trừ tịch". Lễ
Trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn được gọi là lễ giao thừa.
Cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại tư gia.
Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra,
trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: Chiếc thủ
lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã,
đôi khi có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành khiển.
Đến giờ Trừ tịch, người chủ ra khấu lễ, mọi người lễ theo, thành tâm cầu xin vị
tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa cũng cúng
giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay.
Cúng ai trong lễ giao thừa và tại sao cúng giao thừa ngoài trời?
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Người xưa cho rằng mỗi năm
có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc
cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới.
Người xưa cũng quan
niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ
giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền
giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Được mùa, ít thiên
tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém
cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi người xưa hình dung trong phút cựu
vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy
không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí
có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà,
bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa
người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm
vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn
trương nên các vị không thể vào trong nhà thụ hưởng mà chỉ có thể dừng vài giây
ăn hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức vị thần cai quản
trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
Một số tục lệ trong đêm giao thừa
Sau khi làm lễ giao thừa, có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến
thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong,
người dân đi lễ các đình, chùa, miếu,
điện để cầu phúc, cầu may.
Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng
hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
Hái lộc: Đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong có tục hái trước cửa đình, cửa đền
một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của
trời đất thần, phật
ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền,
chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, khấn trước bàn thờ, rồi mang hương đó về
cắm vào bát hương nhà mình.
Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước
giờ trừ tịch, sau lễ Trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa
mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình
mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình.
Nếu không có người nhà,
người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi
có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự may mắn cho gia chủ.
Những nét chấm phá chính về Tết
Tết là dịp hội hè vui chơi sau một năm lao động vất vả, và là dịp để những người
đi xa tìm về sum họp với gia đình, cùng nhau tưởng nhớ đến tổ tiên, cội nguồn.
Người Việt Nam tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ
ngoại vật cho đến lòng người.
Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích
đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những
lời đầy ý nghĩa.
Mùa Tết
Từ 23 tháng Chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc
sự kiện "đưa ông Táo về trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc
Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia). Người người đi mua sắm các
vật dụng cho ngày Tết, đặc biệt là quần áo và thức ăn. Không khí lễ hội mỗi lúc
một tràn ngập hơn.
Chợ Tết
Đi chợ Tết là một trong những thú vui đặc biệt của người dân Việt Nam.
Những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp Tết và chỉ bán các loại "đặc sản" cho
người dân hưởng xuân. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm
để thưởng ngoạn, để dâng lên bàn thờ tổ tiên, như
hoa, cây cảnh, những loại
trái cây, đặc biệt là những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa,
đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài) ... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt
vào trước thời điểm giao thừa.
Những món ăn mang hương vị Tết
Bánh chưng, bánh tét... là các loại bánh đặc trưng cho ẩm
thực Tết của người Việt. Tết cũng là
dịp người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ gồm những món như
canh măng, xôi gấc, thịt gà, thịt đông, giò lụa, nộm, dưa hành muối.
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng và để đãi khách. Mứt có rất nhiều
loại như mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu
riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen. Ngoài ra, Tết
còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ.
Màu của ngày Tết
Màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ, theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài
và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ
với câu đối đỏ, phong bao lì xì
đỏ, dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ…
Người Việt Nam cũng thích bày những loại
hoa có màu đỏ, như hoa hồng, hoa đào, hoa hải đường… Trước đây khi pháo còn
được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo.
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Khái niệm thời gian
“Mùa” Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay
trở sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian trước Tết gọi là
“hăm,” sau tết gọi là “mồng.” Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi
người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng
nhất này./.
Phương Dung (TTXVN/Vietnam+)