Lê Thế Trung - Người lính quân y Hà Nội lừng danh
|
|
Thiếu tướng Lê Thế Trung. (Ảnh: TT&VH)
|
Nhắc đến Giáo sư-tiến sĩ khoa học, Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân, Thiếu tướng Lê Thế Trung, người ta nhắc đến
nhà khoa học đầu ngành của Việt Nam về y học điều trị bỏng. Ông là người đầu
tiên tham gia xây dựng Viện Bỏng Quốc gia, cũng là người thực hiện ca ghép gan
đầu tiên ở Việt Nam.
Cuộc đời binh nghiệp của ông gắn với biết bao phút giây cân não giành giật lại
sự sống của đồng đội, của người dân từ tay tử thần.
Ông sinh năm 1927 tại Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội. Từ khi còn là học sinh trường
Bưởi, ông đã tham gia đoàn Thanh niên cứu quốc. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám bùng
nổ, ông gia nhập Vệ quốc đoàn bảo vệ thủ đô, sau đó được cử đi học lớp y sĩ đầu
tiên của Cách mạng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp khai giảng. Bắt đầu từ
đó, cuộc đời ông gắn liền với sự nghiệp y tế của nước nhà.
Không phải ngẫu nhiên mà cuộc đời chiến đấu, lao động của ông đã trở thành một
bài học trong Sách giáo khoa (Giáo dục công dân lớp 9-Nhà xuất
bản Giáo dục). Riêng nhà
văn Nguyễn Trần Thiết đã viết tới năm cuốn sách về ông.
Đó là "Khát vọng vì con người",
"Trưởng thành", "Mặt trận không tiếng súng", "Chú bộ đội ham học" và
"Đến với những
chân trời mới."
Từ cương vị của một người y tá vệ quốc đoàn đến khi trở thành một vị tướng, ông
luôn là tấm gương tận tụy trong công việc.
Những năm kháng chiến chống Pháp, với trọng trách Chủ nhiệm Quân y quân khu Việt
Bắc, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, ông đã hoàn thành công trình nghiên cứu
khoa học đầu tiên là "Kinh nghiệm chống sốt rét và điều trị sốt rét tại Tây Bắc."
Công trình đã giúp bộ đội chống chọi với những trận sốt rét ác tính vốn đã
quật ngã rất nhiều chiến sĩ, được Cục Quân y đánh giá cao và phổ biến trong toàn
quân.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Cục Quân y nhận định, giặc Mỹ sẽ sử
dụng nhiều loại vũ khí gây sát thương bằng nhiệt như bom napan, bom lân tinh. Vì
vậy, Cục quyết định cử ông đi học tại Liên Xô, chuyên ngành điều trị bỏng. Năm
1963, ông tốt nghiệp xuất sắc tại học viện Ki-Rop.
Trong cuộc họp lần thứ hai
của Ủy ban Điều tra tội ác của Mỹ tại Đông Dương năm 1971 tại Oslo
(Na Uy), với
danh nghĩa là chuyên viên y học và vũ khí của đoàn đại biểu Việt Nam, ông đã
đứng ra tố cáo trước toàn thể nhân loại tiến bộ về những tội ác ghê rợn mà các
loại vũ khí hủy diệt của đế quốc Mỹ gây ra. Đoàn do ông Phạm Văn Bạch, Chủ nhiệm
Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ, lúc ấy là Chánh án Tòa
án Nhân dân Tối cao Việt Nam
làm trưởng đoàn.
Những vali đoàn mang theo đến hội nghị đều là những “vũ khí tối mật” đối với kẻ
thù. Đó là những tài liệu, ảnh về sự hủy diệt của các loại vũ khí mà Mỹ đang sử
dụng trên chiến trường, những “bằng chứng câm” về tội ác của đế quốc. Trong đoàn
còn có những “bằng chứng biết nói,” đó là những mẫu bệnh phẩm của những nạn nhân
chiến tranh đã được ngâm trong phoocmon. Đó là bộ óc của một bà cụ bị trúng bom
bi Mỹ ném ở Hà Tây. Viên bi xuyên vào đầu chạy vòng vèo theo hình chữ chi và
nằm lại ở trong não.
Trong số các vật chứng còn có bàn chân bị bom phốt pho đốt cháy mất một nửa, lá
gan, miếng da, tất cả đều bị cháy xém và phá nát do bom đạn Mỹ. Người có trách
nhiệm mang các chứng tích đặc biệt này qua gần nửa vòng trái đất chính là Lê Thế
Trung. Trưởng đoàn Phạm Văn Bạch nói với ông Trung: “Báo cáo chính trị của tôi
là tiếng chuông mở đầu, còn có thuyết phục được đại biểu các nước khác có kết
luận đế quốc Mỹ phạm tội diệt chủng hay không là do anh.”
Lê Thế Trung hiểu rõ những tên trùm CIA theo dõi sít sao hành trình đến Oslo của
đoàn đại biểu Việt Nam và những vali bí mật như thế nào. Chúng có thể đánh cắp, thậm
chí tìm cách ám sát để đoạt bằng được vali bằng chứng tội ác. Hoặc chúng có thể
cản trở ông không kịp đến hội nghị.
Cấp trên đã vạch rõ mọi phương án cho Lê Thế Trung đối phó với kẻ thù ngay khi
đặt chân đến châu Âu. Kế hoạch di chuyển bí mật của đoàn cũng được thay đổi thêm
một lần. Từ Bắc Kinh, đoàn hạ cánh xuống sân bay quốc tế Mátxcơva, đánh lạc
hướng bằng cách bay sang Helsinki (Phần Lan), từ đó bay sang Stockholm
(Thụy
Điển) rồi mới bay sang Oslo, đến sớm hơn dự kiến. Và
Việt Nam đã chiến thắng
trong cuộc chiến tại hội nghị.
Đúng năm đất nước giải phóng, Lê Thế Trung được cấp bằng
tiến sĩ. Rời khỏi cuộc
chiến, ông cùng đồng đội hăm hở bắt tay vào việc tiếp tục xây dựng
trường Đại
học Quân y, sau đó phát triển lên Học viện Quân y do ông trực tiếp làm
hiệu
trưởng. Ông đã sáng lập ra chuyên ngành bỏng và Viện bỏng quốc gia, vốn là
chuyên ngành khoa học ông nguyện gắn bó suốt đời, bởi thảm họa bỏng gây ra tai
nạn thương tích cho người dân chỉ đứng sau tai nạn giao thông!
Chính mắt chúng
tôi đã chứng kiến ông chạy đôn chạy đáo cấp cứu, điều trị cho bệnh nhân, khi
cách đây mấy năm, một xe khách chở thuốc pháo đã phát nổ ở Bắc Ninh, khiến hơn
60 người bị thương và thiệt mạng. Nhà ông ở ngay gần Viện Bỏng đây thôi, hễ bệnh
nhân cần là ông có mặt.
Ông là tấm gương làm việc không ngừng nghỉ, năm 2003 ông nghỉ hưu nhưng
đến tháng 1/2004, ông vẫn là người chỉ huy ca ghép gan đầu tiên tại Việt Nam.
Bệnh nhân trong ca ghép gan đó là cháu Nguyễn Thị Diệp ở Nam Định, bị mắc bệnh
teo đường mật bẩm sinh, phải thay gan.
Tham gia ca ghép gan đó còn có người con trai cả của ông - Phó giáo
sư-tiến sĩ, Đại tá Lê Trung Hải, hiện là Viện phó ngoại khoa Viện
Quân y 103, người thực hiện ca mổ là bác sỹ Nhật Bản. Ca phẫu thuật thành công
đã đánh dấu một mốc son của nền y học Việt Nam.
Chúng tôi đến thăm ông khi ông đang bắt tay chấp bút viết hồi kí về cuộc đời
mình. Ở tuổi 84, sau bao năm cống hiến và chỉ có thời gian để viết sách khoa
học, giờ đây ông mới viết được cái gì đó cho riêng mình.
Trong trang thứ ba của bản thảo nhật ký viết tay của ông, chúng tôi bắt gặp: “Năm
nay (2010) chúng ta có vinh dự tổ chức 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Hà Nội có
nghìn năm lịch sử đã trở thành thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Biết bao công ơn
của tổ tiên chúng ta, công dựng nước, công giữ nước. Trong đó có công ơn lịch sử
100 năm của thế kỷ 20 và công ơn của các bậc Cách mạng tiền bối, và trong đó có
cả công sức của anh em chúng ta với tổ quốc thân yêu của mình.”
Giáo sư-tiến sĩ khoa học Lê Thế Trung
Nguyên Viện trưởng Viện Quân y 103 và Viện Bỏng Quốc gia, Giám đốc Học viện Quân
y. Ông đã xuất bản 35 đầu sách về nghiên cứu ngoại khoa chung và ngoại khoa dã
chiến, bỏng, phẫu thuật tạo hình, Thuốc nam trong điều trị vết thương, vết bỏng,
hỗ trợ điều trị ung thư, ghép thận.
Tập sách về bỏng gồm: "Bỏng chiến tranh",
"Bỏng và phẫu thuật tạo hình", "Kinh nghiệm
xử trí vết thương chiến tranh."
Sách về ngoại khoa dã chiến: "Sốc chấn thương";
"Sổ tay bác sĩ ngoại khoa"; "Vết
thương do mìn."
Tập sách về quy trình ghép thận. Tập sách cộng đồng phòng chống
thảm họa. Đã hoàn thành ba đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước,
bảy đề tài cấp Bộ và 65
đề tài cấp cơ sở như: Công trình chẩn đoán, bệnh lý, điều trị bỏng chiến tranh.
Công trình thuốc hỗ trợ điều trị ung thư: Phylamin, Xạ đen. Công trình về ghép
thận, về y học thảm họa.
Ông được Nhà nước tặng Huân chương Quân công hạng Nhì. Huân chương Chiến công
hạng Nhất và hạng Ba. Hai Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Huân chương chiến sĩ
vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thầy thuốc
nhân dân…
|
(TT&VH/Vietnam+)