Hà Nội: Làng Nghĩa Đô ngày ấy, bây giờ

Trong chuyến vua Lý Thái Tổ du xuân năm Tân Hợi (1011), làng Nghĩa Đô (bây giờ là phường Nghĩa Đô) đã được vua đặt tên.

Lịch sử phường Nghĩa Đô còn ghi, đầu Xuân Tân Hợi năm 1011, trong chuyến du xuân ngoại thành, thuyền ngự đi trên dòng sông Tô đến bến Giang Tân (gần chợ Bưởi ngày nay), vua Lý Thái Tổ thấy mấy tấm lụa vẽ một con rồng đang uốn khúc bay bèn dừng thuyền hỏi về nội dung, nguồn gốc bức vẽ. Khi được biết, người dân ở đây chuyên dệt lụa và làm giấy, biết góp công góp sức cùng nhà vua xây dựng Kinh đô và luôn nhớ ơn những người truyền nghề, vua Lý Công Uẩn đã cao hứng đặt tên cho đất này là Nghĩa Đô. Như vậy, làng Nghĩa Đô có lịch sử tương đương với lịch sử Thăng Long - Hà Nội và dù trải qua nhiều khó khăn, vất vả, trải qua bom rơi, đạn lạc, qua nhiều lần tách, nhập, cái tên Nghĩa Đô vẫn được giữ gìn như một niềm tự hào.

Nghĩa Đô ngày nay đã lên phường, không còn là làng nữa, thế nhưng nét văn hóa làng xã với nghề truyền thống, với những buổi chợ phiên vẫn còn được lưu giữ. Đó là điều đáng quý bởi xu hướng đô thị hóa đã làm phôi pha nhiều nét đẹp văn hóa ở không ít ngôi làng được lên phố khác.

Nghĩa Đô còn giữ được nghề làm giấy sắc phong đã truyền hàng nghìn năm. Theo ông Lại Phú Thạch, người duy nhất nắm được bí quyết làm nghề hiện nay, nhiều người lầm tưởng nghề làm giấy sắc đã bị thất truyền do một thời gian dài không thấy xuất hiện. Nhưng vì không có khách hàng đặt mua (kể từ khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945), nên ở thị trường nội địa không có. Thực tế, gia tộc họ Lại vẫn làm giấy theo đơn đặt hàng ở nước ngoài, mà chủ yếu là khách hàng đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Nếu thị trường trong nước có nhu cầu, nghề làm giấy sắc phong ở Nghĩa Đô sẽ lại hồi sinh và phát triển.

Phường Nghĩa Đô thuộc vùng Kẻ Bưởi xưa. Chợ Bưởi hình thành vào năm nào không ai rõ, chỉ biết rằng chợ họp vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 âm lịch. Chợ là nơi trao đổi, mua bán sản phẩm các làng nghề vùng Kẻ Bưởi như lĩnh Yên Thái, Bái Ân, giấy Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã và dụng cụ sản xuất nông nghiệp của vùng Xuân La, Xuân Đỉnh. Ngày nay, chợ Bưởi đã được xây dựng khang trang, hiện đại, nhưng riêng chợ phiên vẫn được duy trì tại một khu vực riêng.


Cổng làng Trung Nha, thuộc phường Nghĩa Đô.

Hơn thế, trên mảnh đất Nghĩa Đô hôm nay còn có rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa quý giá như: Chùa Dụ Ân - nơi tu hành và dạy học của tôn thất nhà Lý - Lý Công Ẩn; đình Bái Ân, nơi thờ thánh Chiêu Ứng Vũ Đại Vương, Thuận Chính công chúa và Chiêu Điều Đại vương; đình An Phú thờ Nguyễn Bông và ngài Trần Toàn; nhà thờ họ Lại thờ tổ nghề giấy sắc phong… Trong số này, nhiều di tích đã được nhân dân trong phường đóng góp kinh phí hàng tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo.

Trong công cuộc xây dựng đất nước và Thủ đô ngày càng giàu đẹp, Nghĩa Đô đã có nhiều đóng góp xứng đáng. Cùng với việc chống tham những, các mặt hoạt động của phường đều đạt được những kết quả đáng khích lệ như phường có 3/4 trường học đạt chuẩn quốc gia; Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng với tỷ lệ hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa hàng năm đạt gần 100% trong đó 89,5% số hộ đạt tiêu chuẩn, tổ dân phố văn hóa đạt 75%; phong trào văn hóa, nghệ thuật quần chúng duy trì sinh hoạt đều đặn ở tất cả các tổ dân phố…

Ngày 13/3 (9/2 âm lịch) phường Nghĩa Đô tổ chức lễ hội kỷ niệm 1000 năm vua Lý Thái Tổ đặt tên cùng với lễ Nghênh xuân truyền thống của làng Bái Ân. Lễ hội có nhiều nghi lễ độc đáo như: Rước kiệu quỳ, hát ca trù, chèo, quan họ, cờ người… Đây là dịp để người dân Nghĩa Đô nhắc nhở con cháu hiểu truyền thống, tự hào truyền thống và biết phát huy truyền thống để xây dựng quê hương Nghĩa Đô ngày càng giàu đẹp, văn minh./.

(Thăng Long Hà Nội/Vietnam+)