22/09/2009 | 16:15:00

Địa giới thành Thăng Long-Hà Nội thời nhà Nguyễn

Thềm điện Kính Thiên xưa.

Dưới thời nhà Nguyễn, kinh thành Thăng Long phải chịu một sự chuyển đổi lớn từ kinh thành 800 năm trước trở thành trấn thành rồi dần dần trở thành tỉnh thành.

Thăng Long-Hà Nội đầu thời Nguyễn

Gia Long quyết định đóng đô ở Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn Bắc Thành và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc.

Khi kinh thành Thăng Long đã chuyển thành trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “Long” là rồng thành chữ “Long” là thịnh, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là rồng.

Hoàng thành Thăng Long cũ, ở thời Gia Long chỉ là lỵ sở của tổng trấn Bắc Thành nên tên “Hoàng thành” cũng không được dùng.

Năm 1805, Gia Long hạ lệnh phá bỏ Hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long nên Hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá. Từ đấy, thành xây lại ở Thăng Long thời nhà Nguyễn đã nhỏ đi rất nhiều so với Hoàng thành Thăng Long các thời trước.

Thành mới ở Thăng Long được xây dựng theo lệnh của Gia Long cũng làm theo thể thức các tỉnh thành khác và điều chủ yếu là không được to rộng hơn Hoàng thành của nhà Nguyễn ở Huế. Thành hình vuông mỗi bề rộng chừng một cây số.

Theo kích thước cũ thì chu vi của thành Thăng Long là 1.285 trượng 6 thước 5 tấc, hoặc 1.958 tầm (mỗi tầm là 8 thước ta cũ). Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành xây phía dưới xây bằng đã xanh, phía trên bằng đá ong. Tường cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng.

Thành mở ra 5 cửa: cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc, cửa Đông Nam và cửa Tây Nam. Đường cửa vào xây vòm xuyên qua tường và dài 23m. Trên mỗi cửa có xây lầu canh gọi là thú lâu. Mỗi thú lâu có một cơ binh thay phiên nhau canh gác ngày đêm.

Xung quanh tường thành ở phía ngoài là một dải đất rộng chừng 6, 7m, rồi đến một con hào. Hào rộng khoảng 15, 16m, sâu chừng 5m, hào lúc nào cũng có nước, nhưng mực nước trong hào chỉ cao chừng hơn 1m.

Phía ngoài các cửa thành có một hàng tường đắp liền bờ hào gọi là Dương Mã Thành, dài 2 trượng, cao 7 thước 5 tấc. Các Dương Mã Thành đều có làm một cửa bên rộng chừng 1 trượng, gọi là Nhân Môn. Đi từ ngoài vào thành, phải qua cửa Nhân Môn rồi mới tới cửa thành.

Phía trong thành bố trí như sau: ở giữa là điện Kính Thiên. Những cột gỗ trong điện đều lớn, người ôm không xuể. Thềm điện Kính Thiên có chạm những con rồng đá rất đẹp. Gần điện Kính Thiên có hành cung, để khi vua ra Thăng Long thì ngự tại đây. Từ điện Kính Thiên đi ra cửa Đoan Môn. Phía ngoài Đoan Môn dựng bia ghi công trạng của Gia Long.

Phía đông là dinh các quan lại như dinh tổng đốc, tuần phủ, án sát, đề đốc. Phía tây là các kho thóc, kho tiền và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy. Phía bắc, lập một nhà ngục gọi là Tĩnh Bắc Lâu.

Năm 1812, dựng cột cờ ở phía nam gần đình bia. Cột cờ cao 33,4m, hình bát giác, dựng trên tam cấp. Cột cờ và tam cấp đều xây bằng gạch gốm. Tam cấp hình vuông: cấp trên nhất mỗi chiều dài 15m, cấp dưới cùng mỗi chiều dài 42m. Tầng giữa có 4 cửa nhìn ra ngoài, mỗi cửa có đặt một tên riêng.

Hiện nay 3 cửa còn mang biển đề tên: cửa đông là cửa Nghênh Húc (đón buổi sáng), cửa nam là cửa Hướng Minh (hướng về ánh sáng), cửa tây là cửa Hồi Quang (trả lại tia sáng). Để leo từ dưới lên ngọn cột cờ, có hai thang xoáy trôn ốc. Trên ngọn cột cờ có biển đề hai chữ “kỳ đài”.

Năm 1831, vua Minh Mạng thành lập Tỉnh Hà Nội (đứng đầu là vị Tổng đốc) bao gồm khu vực kinh thành Thăng Long và huyện Từ Liêm, Phủ Hoài Đức, Phủ ứng Hòa, Phủ Lý Nhân, Phủ Thường Tín.

Từ đó, Thăng Long trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nội. Riêng khu vực kinh thành gồm hai huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận (tên mới của huyện Quảng Đức) thì từ thời Gia Long không giữ được quy hoạch 36 phường nữa mà bị chia ra thành nhiều phường nhỏ, thôn, trại. Huyện Thọ Xương có 194 phường, thôn; huyện Vĩnh Thuận có 56 phường, thôn.

Đến thời vua Minh Mạng cho gộp lại, huyện Thọ Xương còn 116 phường, thôn; huyện Vĩnh Thuận còn 27 phường, thôn./.

(TTXVN/Vietnam+)

Bản để in Lưu vào bookmark