15/12/2012
|
10:28:00
Hàng Khay- Phố khảm trai
Phố Hàng Khay (còn có tên là phố Thợ Khảm). Phố nằm trên mảnh đất nối từ hồ
Hữu Vọng đến cửa ô Tây Long vào thời Lê, xưa thuộc đất thôn Thị Vật và Tô Mộc
tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương, Hà Nội.
Có một thời gian dưới thời Pháp thuộc,
phố Hàng Khay gồm cả đoạn cuối phố Tràng Tiền. Sở dĩ gọi tên phố Hàng Khay vì ở
đây chuyên làm nghề đồ gỗ khảm trai, trong đó có mặt hàng khay.
Những dòng trên đây trong sách Lịch sử Việt Nam (NXB Khoa học Xã hội- 1971) viết
về phố Hàng Khay (còn có tên là phố Thợ Khảm). Phố nằm trên mảnh đất nối từ hồ
Hữu Vọng đến cửa ô Tây Long vào thời Lê, xưa thuộc đất thôn Thị Vật và Tô Mộc
tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương, Hà Nội. Có một thời gian dưới thời Pháp thuộc,
phố Hàng Khay gồm cả đoạn cuối phố Tràng Tiền. Sở dĩ gọi tên phố Hàng Khay vì ở
đây chuyên làm nghề đồ gỗ khảm trai, trong đó có mặt hàng khay.
“Độc quyền ở Viễn Đông”
Nghề khảm trai gốc gác từ làng Chuôn Ngọ, thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên,
tỉnh Hà Tây (cũ). Các cụ già trong làng kể rằng, có rất nhiều thợ khảm giỏi
giang ở làng họ muốn nghề nghiệp được phát huy ở những nơi phồn hoa đô hội, liền
tập hợp lại, mang theo cả gia đình ra Thăng Long làm ăn.
Phố Hàng Khay ra đời, công việc làm ăn ngày càng khấm khá, những người thợ cùng
nhau dựng ngôi đền thờ tổ ở làng Cựu Lâu (phố Tràng Tiền ngày nay) để thờ tổ
nghề. Làng Cựu Lâu sau bị phá để mở phố Tràng Tiền, vì thế đền thờ tổ cũng bị
phá bỏ.
Có một thuyết khác, nói cụ thể hơn về quá trình di dân từ làng Chuôn ra Hà Nội
lập nên phố Hàng Khay.
Theo cụ Vũ Văn Trấn (người làng Chuôn), tổ năm đời nghề khảm làng Chuôn họ Vũ,
tên là Vũ Văn Kim. Con cụ Kim là Vũ Văn Ngân cùng gia đình và một số thợ giỏi
trong làng ra Hà Nội làm ăn và lập nên phố Hàng Khay, thời gian này được xác
định vào khoảng thế kỷ 19.
Có nhiều ý kiến khác nhau, thêm vào đó tình hình tư liệu văn bản cũ quá nghèo
nàn, nên thời điểm hình thành phố Hàng Khay khó có thể khẳng định chính xác.
Khảm trai là một nghề thủ công mỹ nghệ cao cấp. Công việc chủ yếu của thợ là làm
hoành phi, câu đối phục vụ cho các đình chùa và những đồ dùng đặc biệt như khảm
sập gụ, tủ chè, bình phong, điếu ống, tráp trầu, hộp đựng thuốc lá... với những
đề tài chọn trong các tích xưa theo đặt hàng của những người quyền quí.
Những cửa hiệu ở phố Hàng Khay vừa bán hàng vừa sản xuất ngay tại chỗ. Những
người thợ khảm hành nghề theo qui mô từng gia đình, hoặc từng nhóm nhỏ gồm thợ
cả, thợ đục, thợ giũa, tách và vài thợ phụ.
Trong cuốn sách Kỹ thuật của người An Nam in năm 1909, tác giả Oger đã nhận xét:
“Thợ khảm là nhà nghệ thuật chân chính, nhẫn nại và khéo tay vô cùng. Họ biết
phối hợp các màu sắc của vỏ trai để có sự hoà sắc đẹp mắt, làm cho bức khảm trở
nên rực rỡ. Chính vì thế mà nghệ thuật khảm Việt Nam nổi trội lên gần như độc
quyền ở Viễn Đông. Những sản phẩm của người thợ khảm Việt Nam tốt hơn nhiều nếu
so với sản phẩm của người thợ khảm Quảng Đông”.
Vẻ đẹp vĩnh hằng
Khảm trai có thể chia thành hai loại lớn là khảm lên sản phẩm bằng gỗ, đồng, đồi
mồi... và khảm (trai) sơn mài.
Cũng như ở Nhật Bản và Trung Quốc, nghề sơn mài cùng những sản phẩm sơn mài ở ta
đã có từ rất sớm, nhưng sự phối hợp giữa sơn mài và khảm trai thì chỉ mới thịnh
hành vào đầu thế kỷ này, khi mà trình độ dân trí cùng với giao thông và thị
trường mở rộng tới khắp mọi miền.
Mới đầu, chỉ có khảm trai trên các sản phẩm gỗ mà thôi. Trong đó, gỗ trắc được
ưa chuộng nhất vì thớ mịn mà lại rắn. Màu nền của gỗ có ánh đỏ, hồng, đối màu
với các hoạ tiết trai ốc tạo nên màu sắc tương phản nổi bật rất đẹp mắt.
Ít thế kỷ sau, xuất hiện thêm các sản phẩm khảm trai trên đồng, rồi muộn hơn nữa
là khảm trai trên đồi mồi.
Còn căn cứ vào tính hữu dụng thẩm mỹ, ta có thể chia các sản phẩm của làng Chuôn
thành hai loại lớn, đồ thờ cúng và đồ gia dụng.
Đồ thờ gồm: núi thờ, hoành phi câu đối các cỡ, án thư, hòm sắc các cỡ, ống
quyển, bao kiếm khảm hình rồng, thẻ bài các kiểu...
Đồ gia dụng và khánh tiết gồm các loại như đĩa khảm cá hay hoa, khay, quả trầu,
hộp mỹ phẩm, lọ hoa các cỡ, bàn cờ, bình phong, sập, tủ chè và tủ chùa, bàn
ghế...
Ngoài những sản phẩm kể trên, người thợ Chuôn còn khảm tuỳ theo yêu cầu đặt hàng
của khách như cán tẩu thuốc lá, cán ba toong, khảm trai trên nậm rượu bằng đồng
đúc, trên vòng gỗ hoặc đá.
Tuỳ theo giá trị của vật phẩm mà người thợ chọn vật liệu khảm như trai, ốc...
cho phù hợp. Những hoạ tiết khảm xà cừ nhìn chính diện óng ánh màu hồng sáng,
nhìn chéo lại rực lên ánh sáng của những ngọn lửu màu ngọc lục huyền bí. Giá trị
của cái đẹp vĩnh hằng ở những sản phẩm khảm một phần cũng ở cái ánh sáng huyền
bí đó.
Ngoài trai ngọc, trong số vật liệu khảm còn có một loại ốc được nhập khẩu từ
Singapore, đôi khi được dùng để chạm nổi phối hợp với mảnh ngà voi theo cách của
người Nhật. Loại vỏ này được dùng trang trí trên các tấm bình phong lớn, đôi khi
chúng còn được gắn trên mái đình chùa. Ngoài ra còn có loài ốc Nhật Bản với cái
tên là “Tai gấu”, loại này màu sắc lốm đốm, rực rỡ có nhiều ở vịnh Bắc Bộ.
Sau khi tư bản Pháp đổ xô về đây xây dựng công sở, hãng buôn, Hàng Khay đã trở
thành một đường phố sang nhất và “Tây” nhất Hà Nội, những cửa hàng khảm trai dần
bị co lại.
Hiện nay, tuy Hàng Khay chỉ còn một đôi hàng bán đồ chạm khảm, nhưng đã xuất
hiện nhiều đường phố bán và sản xuất mặt hàng khảm trai của thợ làng Chuôn tại
thủ đô Hà Nội. Hàng Khay đã và sẽ là một trong “36 phố phường” của Hà Nội xưa và
những phố phường của Hà Nội hôm nay./.
(Thăng Long Hà Nội/Vietnam+)