Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật Vị tướng huyền thoại của
Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
Vietnam+ xin giới thiệu loạt bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Kỳ VIII: Vị Tổng chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử
Đến năm 1953,quân Pháp lâm vào tình thế khó khăn “tiến thoái lưỡng nan” trên
chiến trường Việt Nam. Để thoát khỏi sự bế tắc đó, Chính phủ Pháp cử Tướng Nava
làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Đông Dương.
Theo “kế hoạch
Nava” trong vòng 18 tháng chúng sẽ tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, giành
thắng lợi chiến lược quyết định, đưa
nước Pháp ra khỏi cuộc chiến tranh một cách danh dự.
Tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông-Xuân
1953-1954 là tập trung lực lượng, mở cuộc tấn công vào những hướng quan trọng về
chiến lược, mà lực lượng địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực
của chúng, buộc chúng bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa
điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ được.
Bộ Chính trị đề ra nguyên tắc chỉ đạo: “Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng
lực lượng ta, đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sơ
hở mà đánh, buộc địch phải phân tán.”
Để đối phó với hoạt động của quân ta trong Đông-Xuân 1953-1954, sau khi cho
nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ, ngày 3/12/1954, Nava quyết định xây dựng Điện
Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh gồm 3 phân khu với 49 cứ điểm.
Cụ thể: phân khu Nam Hồng Cúm, có trận địa pháo binh và sân bay Hồng Cúm, ngăn
chặn quân ta tấn công từ phía Nam. Phân khu Bắc gồm 2 trung tâm đề kháng, bảo vệ
Điện Biên Phủ từ phía Bắc.
Phân khu trung tâm Mường Thanh, là phân khu quan
trọng nhất gồm 5 cụm cứ điểm với 2/3 lực lượng. Ở chính giữa tập đoàn là sở chỉ
huy của Tướng De Castrie, với nhiều cứ điểm bao bọc xung quanh. Tướng Nava, dùng
tập đoàn cứ điểm này vừa làm một “con nhím” xù lông ra để cản bước tiến của quân
ta, vừa làm một
“cái nhọt hút độc” kéo chủ lực ta đến mà tiêu diệt. Chúng đã đưa tới đây một lực
lượng quân sự lớn gồm 16.200 tên lính. Vũ khí, các phương tiện chiến tranh do Mỹ
viện trợ thỏa mãn theo yêu cầu.
Cả Mỹ lẫn Pháp đều cho rằng Điện Biên Phủ là một
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, là pháo đài bất khả xâm phạm. Chúng coi
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là “pháo hạm rừng xanh,” là “máy nghiền Việt
Minh,” là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ, một Vecdon ở Đông Nam Á...”
Với quân
đông, hỏa lực mạnh, công sự kiên cố, có cầu hàng không bảo đảm tiếp tế và viện
binh. Chính phủ Pháp Lanien và Tổng thống Mỹ D. Einsenhower chủ trương quyết
chiến với ta ở Điện Biên Phủ.
Về phía Việt Nam, sau khi phân tích điểm yếu, điểm mạnh của tập đoàn cứ điểm,
qua báo cáo thực tiễn chiến trường của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam, đã hạ quyết tam tiêu diệt tập đoàn cứ điểm này.
Với tinh
thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân các nơi nô
nức đi dân công làm đường, vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí,
đạn
dược bằng nhiều phương tiện khác nhau như xe đạp thồ, ngựa thồ… Bộ đội
cùng dân
công xẻ núi, lấp khe làm đường, đưa 24 khẩu lựu pháo 105 ly, 24 khẩu
pháo cao
xạ 37 ly vượt qua suối sâu, đèo cao bí mật vào trận địa.
Đầu tháng 3/1954, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã hoàn tất. Bộ đội ta
đã đến vị trí tập kết, gồm các Đại đoàn 304, 308, 312, 316 và Đại đoàn công pháo
351.
Theo chỉ thị của Đại tướng, người trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ,
cuộc tiến công địch chia thành 3 đợt.
Đợt một: Ta đánh chiếm các cứ điểm khống chế cửa ngõ tập đoàn cứ điểm phía Bắc.
Trong 5 ngày kịch chiến, bộ đội ta thể hiện rõ sự tiến bộ vượt bậc.
Về chiến đấu hợp đồng binh chủng, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, đồi Độc Lập và
cứ điểm Bản Kéo.
Đợt thứ hai: Ta đồng loạt đánh các cứ điểm địch trên các ngọn đồi phía Đông,
phát triển trận địa tấn công với hàng trăm kilômét giao thông hào và hàng vạn vị
trí bắn tỉa, thắt chặt vòng vây, chia cắt tập đoàn cứ điểm thành từng khúc,
khống chế đi đến triệt hẳn đường tiếp tế của địch. Bộ đội ta buộc
Quân địch ngày đêm chui rúc dưới hầm hố bùn lầy, nước đọng, đói khát.
Đợt thư ba: Bắt đầu từ 1/5/1954, ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông,
thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch ở khu phía Tây. Đồng thời theo chỉ thị
của Tổng chỉ huy chiến dịch, quân ta tổng công kích toàn bộ tập đoàn cứ điểm.
17 giờ ngày 7/5/1954, một mũi của Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 nhanh chóng vượt
cầu Mường Thanh tiến thẳng vào chỉ huy sở của địch. 17 giờ 30 ngày
7/5/1954, Tướng De Castrie và toàn thể bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ bị quân ta bắt sống. Gần 1 vạn tên xâm lược giơ cao cờ trắng ra khỏi
hầm xin hàng.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, dũng mãnh tấn công của quân đội ta đã tiêu
diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngọn cờ “Quyết chiến, Quyết
thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tung bay trên nóc hầm De Castrie. Chiến thắng
Điện Biên Phủ đã buộc chính quyền Pháp phải ký Hiệp định Geneva, lập lại hòa
bình ở Đông Dương.
Về Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Dân tộc ta có
thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời
đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu
tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ
khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ
nghĩa.
Điện Biên Phủ mãi mãi sẽ được ghi vào lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc ta và
của nhân dân các dân tộc trên thế giới”./.