17/02/2012
|
09:53:00
Bảo vệ và phát huy giá trị di tích cách mạng Hà Nội
1- Di tích lịch sử văn hóa và di tích lịch sử cách mạng
1.1- Khái niệm di tích:
Theo quy định của Luật Di sản văn hóa được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ IX thông qua ngày 29-6-2001 thì, di tích lịch
sử văn hóa là “Công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia thuộc công trình, địa điểm đó, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”. Di
tích lịch sử văn hóa gồm các bộ phận cấu thành sau đây:
- Các công trình kiến trúc, địa điểm có liên quan tới các sự kiện lịch sử hoặc
nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa.
- Những đồ vật trong nội thất các công trình kiến trúc (vật dụng cá nhân, đồ tế
tự trong các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng .v.v.).
- Môi trường cảnh quan thiên nhiên xen kẽ hoặc bao quanh di tích.
- Những giá trị văn hóa phi vật thể gắn với các công trình, địa điểm đó.
1.2- Phân loại di tích:
Căn cứ vào đặc điểm nội dung và hình thức thì di tích lịch sử văn hóa và danh
lam thắng cảnh được phân ra thành 4 loại:
Một là, di tích lịch sử, bao gồm những công trình, địa điểm gắn với sự kiện lịch
sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân thế và sự
nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước, gắn với sự kiện lịch sử tiêu
biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Hai là, di tích kiến trúc nghệ thuật, bao gồm quần thể các công trình kiến trúc
hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật
của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
Ba là, di tích khảo cổ, gồm những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật, đánh dấu
các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ.
Bốn là, danh lam thắng cảnh, là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ cao,
hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để lại có giá trị về
lịch sử, văn hóa, khoa học.
Căn cứ vào giá trị về các mặt lịch sử, văn hóa và khoa học và cấp độ Quản lý,
các di tích lại được chia thành ba loại:
Một, di tích quốc gia đặc biệt, là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của
quốc gia, do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xếp hạng.
Hai, di tích quốc gia, là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, do Bộ
trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định xếp hạng.
Ba, di tích cấp tỉnh thành phố, là di tích có giá trị tiêu biểu trong phạm vi
một địa phương, do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết
định xếp hạng.
Việc hiểu rõ nội hàm khái niệm di tích và các hình thức phân loại di tích có ý
nghĩa quan trọng để xác định thái độ ứng xử đúng cho từng loại hình di tích, đó
cũng là một trong những cơ sở khoa học giúp cho việc hoạch định chính sách về
bảo tồn và phát huy gía trị di tích.
1.3- Di tích lịch sử cách mạng:
Theo những quy định hiện hành (vừa được nêu trên đây), thì hiện không có riêng
một loại hình di tích lịch sử cách mạng. Tuy vậy, trong nội dung một số văn bản
quy phạm pháp luật, dự án, bài viết... về vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, cụm từ khái niệm di tích lịch sử
cách mạng hoặc di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến lại được sử dụng khá nhiều
- Thí dụ:
- Luật Di sản văn hóa (Điều 59): "Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho các hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia,
bảo vật quốc gia, di tích lịch sử cách mạng và di sản văn hóa phi vật thể có giá
trị tiêu biểu".
- Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11-11-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa (Điều 40, khoản 2): "Tổng hợp và cân
đối vốn đầu tư hàng năm cho các dự án bảo vệ và phát huy giá trị di tích quốc
gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia, di tích lịch sử cách mạng và di sản văn hóa phi
vật thể có giá trị tiêu biểu".
- Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24-7-2001 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa -
Thông tin phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch
sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020:
+ Tại phần "Mục tiêu cụ thể": "Đến năm 2010, 50% di tích quốc gia đặc biệt được
Nhà nước đầu tư tu bổ và tôn tạo trong đó ưu tiên các di tích về lịch sử cách
mạng và kháng chiến...".
+ Tại mục 2, phần Các giải pháp chủ yếu: "Nguồn vốn thực hiện: Ngân sách nhà
nước tập trung đầu tư cho các di tích lịch sử, di tích cách mạng và kháng
chiến...".
Từ thực tiễn đó, để thực hiện chuyên đề này, chúng tôi tạm sử dụng khái niệm "Di
tích lịch sử cách mạng" với cách hiểu, đó là những di tích lịch sử - văn hóa mà
tiêu chí để xác định chúng là di tích được quy định tại Điều 28, mục 1, khoản b
và khoản c của Luật Di sản văn hóa. Cụ thể:
- Theo Điều 28, mục 1, khoản b, thì những di tích đó là các "Công trình xây
dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của
đất nước".
- Theo Điều 28, mục 1, khoản c, thì những di tích đó cũng là các "Công trình xây
dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng,
kháng chiến".
Như thế, trên thực tế, di tích lịch sử cách mạng không phải là một loại hình di
tích riêng, mà đó chỉ là những di tích thuộc loại hình di tích lịch sử hoặc di
tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật, nhưng giá trị nổi bật của chúng được xác
định bởi (các di tích đó) hoặc là "Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân
thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước", hoặc là "Công
trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách
mạng, kháng chiến". Tuy nhiên, khung niên đại để xác định các di tích gắn với
các cá nhân sự kiện ấy là di tích lịch sử cách mạng thì đến nay cũng còn có
những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khung niên đại thời gian đó được mở
đầu từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta và kết thúc vào năm 1975; có ý kiến
cho rằng thời điểm mở đầu là từ khi diễn ra cuộc vận động thành lập Đảng (đầu
thế kỷ XX) và điểm kết thúc là năm 1975. Riêng về thời điểm cuối của khung niên
đại ấy, lại có nhiều ý kiến cho rằng nên xác định là "cho đến nay". Sẽ còn cần
thảo luận tiếp về vấn đề này, nhưng trước mắt, chúng tôi nghĩ nên xác định khung
niên đại đó được mở đầu từ khi diễn ra cuộc vận động thành lập Đảng và kết thúc
được mở ra cho đến ngày nay - nói gọn lại, đấy là tất thảy các nhân vật, sự kiện
lịch sử gắn kết làm nên thời đại Hồ Chí Minh, một giai đoạn đặc biệt trong lịch
sử dân tộc. Dĩ nhiên, trong mọi trường hợp, thì việc phân tách ra nhóm "di tích
lịch sử cách mạng" chỉ có ý nghĩa hết sức tương đối; có thể coi đó là một thao
tác giúp cho việc nghiên cứu hoặc lựa chọn đề xuất các phương án bảo vệ và phát
huy giá trị (các di tích này) được thuận lợi.
2- Thực trạng hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở
Hà Nội
2.1- Khái quát về hệ thống di tích lịch sử, văn hóa ở Thành phố Hà Nội:
Theo thống kê hiện nay, Thành phố Hà Nội có 550 di tích đã được xếp hạng quốc
gia (Thực ra, theo quyết định xếp hạng di tích của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông
tin, thì Hà Nội có 391 di tích được xếp hạng, nhưng trong số này, một số di tích
là “cụm di tích”, nên Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội vẫn tính số di
tích được xếp hạng theo từng đơn vị di tích cụ thể, nên mới có con số di tích
xếp hạng là 550). Số di tích này bao gồm:
- Đình: 196
- Chùa: 195
- Đền: 77
- Di tích cách mạng và các di tích khác: 82
Nhìn tổng thể, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của hệ thống di tích ở Hà
Nội như sau:
Một là, trong thời kỳ lịch sử cận hiện đại, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa và, từ năm 1945, là Thủ đô của nước ta, nên các di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội là những di tích nổi tiếng đặc biệt hơn nhiều vùng miền khác. Biểu
hiện là:
- Di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội chủ yếu là những công trình xây dựng, địa
điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và
Nhà nước; gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng
chiến - Tiêu biểu trong số này là Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ
tịch.
- Các di tích vốn là những công trình được xây dựng để phục vụ nhu cầu của các
cơ quan
Trung ương đầu não, nên ngay từ đầu, đã gắn kết với nhau trong quy hoạch tổng
thể của đô thị thủ phủ của đất nước và thường có quy mô lớn
- Chẳng hạn, di tích Quảng trường Cách mạng Tháng Tám (gắn với Nhà hát Lớn Hà
Nội), di tích Bắc Bộ phủ...
- Sự kiện, vấn đề lịch sử, văn hóa gắn với các di tích lịch sử cách mạng ở Hà
Nội, làm nên giá trị di tích, luôn mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế, do đó, nâng
tầm di tích lên giá trị đặc biệt - hầu hết các sự kiện lớn của thời đại Hồ Chí
Minh đều ngưng đọng gắn kết với di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội: thành lập
chi bộ cộng sản đầu tiên (5D Hàm Long), Cách mạng Tháng Tám, Chiến dịch Điện
Biên Phủ trên không...
- Quá trình đầu tư xây dựng, tu bổ, tôn tạo các di tích cũng được Nhà nước quan
tâm thường xuyên hơn, với mức độ lớn hơn.
- Hà Nội là đô thị ngàn năm tuổi, nên các di tích lịch sử cách mạng cùng với các
di tích lịch sử - văn hóa có trên địa bàn chính là những bộ phận điểm nhấn, hợp
cùng các dấu tích đô thị cổ xưa và đương đại, không gian - cảnh quan của đô thị
Hà Nội nói chung, đưa Hà Nội trở thành một di sản đô thị đặc biệt. Theo đó, kiến
trúc cảnh quan của từng di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội nói riêng, di tích
lịch sử - văn hóa ở Hà Nội nói chung, đã và sẽ không bao giờ tách rời tổng thể
kiến trúc cảnh quan đô thị Hà Nội - Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ
tịch như là một trung tâm điểm nhấn của một cảnh quan tổng thể được hình thành
khu vực Phủ Chủ tịch và trụ sở của các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước,
Quốc hội, cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh và một biểu tượng đặc biệt của Hà Nội - Việt
Nam: Chùa Một cột...
Với những biểu hiện đó, có thể khẳng định các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội
luôn mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản và là hiện diện tiêu biểu của di tích
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Hai là, từ khi ra đời đến hôm nay, hầu hết các di tích lịch sử cách mạng ở Hà
Nội luôn gắn liền với đời sống và các hoạt động thường nhật của các cơ quan, các
đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, đồng thời là điểm hướng tới nhằm
bày tỏ lòng thành kính thiêng liêng với công ơn của Đảng và Cách mạng của các
cộng đồng và cá nhân, nên đó là những di tích sống, không đơn thuần chỉ là những
cái còn lại.
Ba là, như vậy, các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội (cũng là tình hình chung
của các di tích loại này ở các vùng miền khác) nhiều khi là những công trình xây
dựng để phục vụ những nhu cầu khác (nhà ở, cửa hiệu, đình, chùa…), sau đấy, khi
được gắn với những sự kiện, danh nhân cách mạng, thì trở thành di tích lịch sử
cách mạng, nên hầu như không còn hoặc chỉ còn rất ít dấu vết nguyên gốc từ khi
khởi dựng. Cũng rất ít di tích hiện đang tồn tại là “sản phẩm” nguyên gốc. Điều
đó có nghĩa là, các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội không hoàn toàn là sản
phẩm của lao động sáng tạo của một thời kỳ lịch sử nào, mà là sản phẩm của một
quá trình tiếp nối sáng tạo, hôm qua, hôm nay, và trong tương lai - Di tích 48
Hàng Ngang vốn là một cửa hàng buôn bán tơ lụa, đến nay đã qua nhiều thay đổi;
di tích 90 Thợ Nhuộm vốn là tư gia của một nhà tư sản, nay vẫn là trụ sở của
chính Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội...
Bốn là, di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội cũng nằm trong tình trạng chung của
các di tích lịch sử - văn hóa có trên địa bàn, đó là, rất nhiều di tích, nhất là
di tích ở trong khu vực nội thành, thường không có khu vực bảo vệ 2 và luôn bị
“vây chặt” bởi nhà dân hoặc các công trình công cộng khác. Vì thế, không gian
kiến trúc, cảnh quan di tích thường bị co hẹp và luôn chịu áp lực đô thị hóa
ngày càng tăng, làm biến dạng hoặc bị phá vỡ trong quá trình phát triển đô thị.
Đặc biệt, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra ngày
càng nhanh, mạnh đã và sẽ luôn tạo ra một áp lực lớn đối với công tác bảo tồn
các di tích. Theo đó, việc xử lý các mối quan hệ giữa: cổ truyền và đương
truyền, bảo tồn và phát triển, kinh tế và văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc và
hội nhập quốc tế... luôn đặt ra những thách thức lớn, trực tiếp đối với toàn bộ
các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa nói chung, di
tích lịch sử cách mạng nói riêng ở Hà Nội.
2.2- Thực trạng hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở
Hà Nội:
2.2.1- Trong bối cảnh chung của hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích ở
nước ta, có thể khẳng định hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử
cách mạng ở Hà Nội thời gian qua đã thu được những thành tựu cơ bản sau đây:
2.2.1.1- Xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật:
Từ năm 1945 đến nay, cùng với sự phát triển của ngành, một hệ thống văn bản pháp
lý về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được hình thành, tiêu biểu
là: Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam - Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký và công bố ngày 23-11-1945; Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích
lịch sử và danh lam thắng cảnh - Thủ tướng Chính phủ công bố ngày 29-10-1957;
Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh -
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước - Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố
ngày 31-3-1984.
Các văn bản quy phạm pháp luật trên đã xác lập hành lang pháp lý cho các hoạt
động bảo tồn bảo tàng trong những thập kỷ qua. Tuy nhiên, phải đến khi Luật di
sản văn hóa được Quốc hội Khóa 10, kỳ họp thứ 9, thông qua ngày 29-6-2001, có
hiệu lực từ ngày 01-01-2002, và Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11-11-2002 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa được
ban hành, thì hệ thống văn bản này mới căn bản hoàn thiện. Đó cũng là một thành
tựu nổi bật trên hành trình phát triển của hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
di tích ở Việt Nam, tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động trên
lĩnh vực này ở Hà Nội và cả nước.
2.2.1.2- Hình thành mạng lưới bộ máy Quản lý nhà nước, phát triển sự nghiệp về
di tích:
Quản lý nhà nước, phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch
sử, văn hóa được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan Quản lý nhà nước và
các đơn vị sự nghiệp của ngành di sản văn hóa. Trong những năm qua, hệ thống tổ
chức này đã dần được hình thành và ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Theo đó,
Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thay mặt Chính
phủ thực thi toàn bộ công tác bảo vệ và phát huy các di tích lịch sử, văn hóa
nói riêng, các di sản văn hóa nói chung; Cục Di sản văn hóa - cơ quan trực thuộc
Bộ Văn hóa - Thông tin, có chức năng giúp Bộ trưởng Quản lý nhà nước về di sản
văn hóa và chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ đối với các hoạt động bảo
vệ và phát huy di sản văn hóa theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Ở các địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đều có bộ máy Quản lý
di tích lịch sử văn hóa. Sở Văn hóa - Thông tin là cơ quan tham mưu cho UBND
tỉnh, thành phố về lĩnh vực này. Mô hình phổ biến, trong thời gian qua, ở Sở Văn
hóa - Thông tin các tỉnh là: Bảo tàng tỉnh chịu trách nhiệm về công tác bảo tàng
và bảo tồn di tích. Ở một số Sở Văn hóa - Thông tin, cũng đã xuất hiện việc
thành lập các Ban Quản lý di tích riêng (thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Ninh Bình, Nam Định, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Kiên Giang...). Lại
có trường hợp, tại những di tích lớn (Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nhà tù Hỏa Lò,
Côn Sơn, Yên Tử, Chùa Hương, ...), đã hình thành các ban Quản lý di tích với tư
cách một đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa - Thông tin hoặc UBND cấp huyện. Các tỉnh
có di sản văn hóa thế giới, đã thành lập riêng một Ban Quản lý các di sản này
với tư cách một đơn vị cấp Sở (Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, Ban Quản lý
Vịnh Hạ Long, Trung tâm Bảo tồn di sản và di tích tỉnh Quảng Nam,...).
Tại Hà Nội, các cơ quan thực hiện nhiệm vụ này gồm có:
- Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Hà Nội, với các đơn vị trực thuộc là: Ban
Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội; Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò; Trung
tâm Văn hóa - Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám; Bảo tàng Hà Nội.
- Trung tâm bảo tồn Khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội, trực thuộc UBND Thành
phố Hà Nội.
- Ban Quản lý khu Phố cổ Hà Nội, trực thuộc UBND, quận Hoàn Kiếm.
Theo đó, các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội thuộc về sự Quản lý, hướng dẫn
tổ chức các hoạt động chuyên môn của Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội và
Bảo tàng Hà Nội. (Chỉ riêng trường hợp Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ
Chủ tịch là do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quản lý - đơn vị trực tiếp giúp
Bộ thực hiện công việc này là Ban Quản lý Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
Phủ Chủ tịch).
2.2.1.3- Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng:
- Các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động bảo tồn di tích lịch sử cách mạng: Nguồn
vốn này được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau đây: Vốn ngân sách nhà nước,
vốn từ việc khai thác di tích được đầu tư trở lại cho di tích, vốn có được từ xã
hội hóa các hoạt động bảo tồn di tích (đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong
nước và tài trợ của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài)... Các nguồn vốn này được
đầu tư cho di tích lịch sử cách mạng theo các phương thức: Nhà nước đầu tư trực
tiếp cho di tích thông qua vốn xây dựng cơ bản và vốn sự nghiệp trong Chương
trình mục tiêu quốc gia về văn hóa - thông tin, hoặc qua việc cân đối ngân sách
của Thành phố Hà Nội; nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài
nước.
Do vị trí, vai trò, giá trị đặc biệt của các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội,
nên trong thời gian qua, các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di tích này nhìn chung đều được tăng cường. Không kể Khu di tích Chủ
tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã nhận được sự ưu tiên đầu tư đặc biệt, thì
hầu hết các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo với
các mức độ khác nhau. Chỉ tính riêng từ năm 2005 đến nay, tổng số kinh phí dành
cho việc này đã xấp xỉ 2,5 tỷ đồng. Nhiều dự án tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử
cách mạng đã và đang được triển khai - Chẳng hạn, dự án đầu tư cho 9 điểm di
tích ATK Đông Anh là 600 triệu đồng, cho di tích Địa đạo Nam Hồng là hơn 1 tỷ
đồng (giai đoạn 1) và giai đoạn 2, (dự kiến) đầu tư cho di tích Pháo đài Láng là
2 tỷ đồng… Dĩ nhiên, đó là nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước; còn trên thực
tế thì khi triển khai, các dự án này luôn nhận được sự đóng góp công sức, tiền
của của khá nhiều tổ chức, cá nhân.
Nhưng có một vấn đề cần quan tâm là, trong trường hợp ngân sách nhà nước trực
tiếp đầu tư cho di tích thì việc Quản lý nguồn vốn và kỹ thuật thường chặt chẽ,
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do nhu cầu tu bổ, tôn tạo di tích thì lớn, mà nguồn vốn
của nhà nước lại có hạn, nên khó có thể đáp ứng, càng khó có điều kiện để đầu
tư tập trung nhằm hoàn thành dứt điểm các dự án tu bổ di tích lớn. Trường hợp
nguồn vốn được huy động từ các tổ chức, cá nhân đầu tư trực tiếp cho di tích,
lại gặp phức tạp khác, là: Tuy lượng kinh phí, công sức của xã hội đầu tư cho di
tích rất lớn, nhưng việc Quản lý chỉ đạo kỹ thuật tu bổ lại rất khó khăn, nên
nhiều trường hợp, các di tích sau khi được tu bổ bằng nguồn vốn này, đã suy giảm
giá trị, thậm chí có trường hợp di tích bị biến dạng.
2.2.1.4- Việc phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội:
Trong những năm qua, hoạt động này đã ngày càng được quan tâm và mang lại hiệu
quả tích cực. Trước hết, về lợi ích chính trị, văn hóa, tinh thần, hầu hết các
di tích lịch sử cách mạng đã được quan tâm tu bổ, tôn tạo để trở thành các trung
tâm giáo dục truyền thống, sinh hoạt văn hóa, qua đó góp phần nâng cao ý thức
chính trị, tinh thần giác ngộ cách mạng cho các thế hệ, đồng thời nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho nhân dân và góp phần tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu tuyên truyền, quảng bá giá trị di sản văn hóa của Hà Nội nói chung với công
chúng ở trong và ngoài nước. Về lợi ích kinh tế, do đã gắn kết việc bảo vệ, phát
huy giá trị di tích với hoạt động du lịch, nên một số di tích lịch sử cách mạng
ở Hà Nội đã trở thành điểm đến trung tâm hoạt động văn hóa và du lịch có sức hấp
dẫn. Nhiều di tích khác cũng đã và đang được quy hoạch khai thác để hình thành
các tuyến du lịch.
2.2.2- Một số hạn chế trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử
cách mạng ở Hà Nội:
Có thể lưu ý một số hạn chế chính trong thực tiễn hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội thời gian qua như sau:
- Trong khi việc Quản lý của các cơ quan nhà nước còn nhiều hạn chế, tình trạng
lấn chiếm di tích ở Hà Nội, trong đó có các di tích lịch sử cách mạng, tập trung
trong khu vực nội thành, đã trở thành hiện tượng có tính phổ biến. Đây là hậu
quả của việc cư trú lộn xộn sau /trong những lần người Hà Nội đi “tản cư” (trong
kháng chiến chống Pháp) và “sơ tán” (trong kháng chiến chống Mỹ), cùng nhiều lý
do khác nảy sinh trong đời sống đô thị. Việc giải quyết tình trạng này đã và
đang còn rất nan giải, khiến không gian kiến trúc và cảnh quan di tích không chỉ
bị vi phạm, mà việc quy hoạch, tôn tạo di tích cũng rất khó khăn.
- Sự phối hợp trong hoạt động bảo vệ phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng
giữa hai ngành văn hóa và du lịch, giữa ngành văn hóa với các cơ quan, đoàn thể
hữu quan (Uỷ ban Nhân dân, Ban Tuyên giáo, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ các
cấp,…) còn chưa được chặt chẽ, thường xuyên và hiệu quả. Tình trạng phổ biến là
ngành văn hóa, với chức năng, nhiệm vụ và khả năng kinh phí của mình, cố gắng
đẩy mạnh việc bảo vệ, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng, còn ngành du
lịch thì coi các di tích như là các tài sản sản phẩm du lịch vốn có, chỉ tập
trung vào việc khai thác. Do đấy, nếu “nhìn sang” việc khai thác các di tích
chung, di tích lịch sử cách mạng nói riêng sẽ dễ nhận thấy hiệu quả của việc
khai thác hơn 500 di tích ở Hà Nội, cùng kho tàng di sản văn hóa của Thăng Long
- Hà Nội nghìn năm, là còn rất hạn chế. Biểu hiện rõ nhất của những hạn chế này
là việc, cho đến nay, có thể nói ở Hà Nội chưa có bất kỳ một di tích lịch sử
cách mạng nào mà việc bảo tồn, tôn tạo được triển khai trong một dự án mang tính
chất liên ngành, nhằm qua đó đưa di tích trở thành một sản phẩm văn hóa - du
lịch hoàn chỉnh; cũng chưa có một tua du lịch nào thực sự là sản phẩm của sự
phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành, ở đó có sự kết nối liên hoàn các điểm di tích,
bao gồm di tích lịch sử cách mạng và các loại hình di tích khác, với các di sản
văn hóa và dịch vụ du lịch khác, nhằm phát huy tốt nhất giá trị của các di tích
này.
- Do nguồn ngân sách Nhà nước hàng năm cấp cho chống xuống cấp di tích có hạn
nên một số di tích lịch sử cách mạng chưa được tu bổ, hoặc tu bổ kéo dài;
nhiều di tích có tiềm năng khai thác phục vụ công tác giáo dục truyền thống, thể
hiện sự tri ân với sự đóng góp của các tập thể, cá nhân cho cách mạng và phát
triển du lịch đang cấp thiết cần tu bổ nhưng chưa được tập trung vốn để đầu
tư triển khai dứt điểm.
- Các di tích lịch sử cách mạng chưa được đầu tư tu bổ, tôn tạo một cách đồng
bộ; việc xây dựng và triển khai các dự án tu bổ, tôn tạo di tích có tính lồng
ghép phối hợp giữa các ngành: Văn hóa - Thông tin, Giao thông Vận tải, Du lịch,
Môi trường... còn lỏng lẻo, do đó, chưa kết hợp được việc tu bổ, tôn tạo di tích
với việc tôn tạo cảnh quan, môi trường, xây dựng cơ sở dịch vụ..., để từ đó mở
ra điều kiện khai thác, phát huy giá trị di tích được đa dạng, hiệu quả hơn sau
khi di tích được tu bổ, tôn tạo.
- Công tác nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể và kế hoạch đầu tư tu bổ bảo
vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng triển khai chậm; việc phân loại
và phân cấp Quản lý, đầu tư tu bổ di tích lịch sử cách mạng cũng như ban hành
quy chế tu bổ và khai thác di tích còn lúng túng. Đặc biệt, giữa các ngành văn
hóa, quy hoạch đô thị, kiến trúc, xây dựng, du lịch... còn chưa tạo lập được sự
thống nhất về nhận thức và phương pháp ứng xử trong việc xác định giá trị di
tích, đề xuất phương án bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Vì thế, nhiều di tích
có giá trị đặc biệt nhưng vẫn chưa thực hiện được việc bảo tồn, khai thác hiệu
quả (các di tích nhà số 5D - Hàm Long, 48 - Hàng Ngang, ...).
- Một số di tích lịch sử cách mạng, vì nhiều lý do khác nhau, đã bị sử dụng sai
mục đích trong một thời gian dài (ngay di tích nhà số 5D - Hàm Long đến nay vẫn
được sử dụng làm trụ sở của Bảo tàng Hà Nội). Do vậy, không chỉ không gian, cảnh
quan, môi trường của di tích bị xâm phạm, mà giá trị thiêng liêng của di tích
cũng bị suy giảm.
3- Một số giải pháp chính nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội:
3.1- Mục đích và nguyên tắc cơ bản của hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội:
3.1.1- Mục đích cơ bản của hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử
cách mạng ở Hà Nội:
Mục đích cơ bản của toàn bộ các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích
lịch sử cách mạng ở Hà Nội được xác định dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng ta về
nhiệm vụ bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa: “Di sản văn hóa là tài sản vô
giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng
tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa Cách
mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[1]. Theo đó, bảo vệ và phát huy
giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội không chỉ nhằm giữ gìn những tài sản
văn hóa đặc biệt gắn kết phản ánh một thời kỳ cách mạng hào hùng của dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng, được diễn ra trên địa bàn Thủ đô, nhằm phục vụ cuộc
sống đương đại và trao truyền cho các thế hệ sau, mà qua đó, còn trực tiếp góp
phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế
với một vị thế cao hơn. Mục đích đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Giữ gìn nguyên vẹn và đầy đủ các giá trị tiềm ẩn trong di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội, bao gồm giá trị các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi
vật thể; đồng thời, quan tâm giữ gìn, tôn tạo cảnh quan, môi trường di tích,
nhằm đưa di tích trở thành một sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh.
- Khai thác và phát huy có hiệu quả di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội là khai
thác và phát huy những giá trị tư tưởng, văn hóa cách mạng của các thế hệ trước
nhằm trực tiếp phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay và tương
lai.
- Bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội cần hướng đích
đưa di tích trở thành một trong những nhân tố chủ đạo trong quy . hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở các địa phương cũng như quy hoạch phát triển đô thị và
các khu dân cư, đặc biệt là trong việc xác định các hành trình văn hóa, xác lập
các tuyến du lịch văn hóa, qua đó mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho ngân
sách nhà nước và mang lại những lợi ích vật chất, tinh thần cho nhân dân Hà Nội
nói riềng, cả nước nói chung.
- Bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội trên đầy đủ các
phương diện (kiến trúc, cảnh quan, các di sản vật thể và phi vật thể gắn kết với
di tích...) là góp phần bảo vệ và xây đắp môi trường sinh thái - nhân văn bền
vững.
3.1.2- Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội:
Cũng như mọi hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa nói
chung, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội
là hoạt động có tính khoa học và thực tiễn cao, lại là hoạt động có liên quan
tới nhiều vấn đề nhạy cảm. Vì vậy, các hoạt động này cần được tiến hành dựa
trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Bảo vệ và phát huy giá trị di tích phải được bắt đầu bằng việc xây dựng quy
hoạch tổng thể bảo vệ và phát huy giá trị di tích của toàn bộ Thành phố Hà Nội
nói chung và của từng di tích lịch sử cách mạng nói riêng. Dĩ nhiên, quy hoạch
này phải được đặt trong luôn gắn kết với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội của toàn Thành phố và của từng quận /huyện, phường /xã. Đồng thời, quy
hoạch đó đòi hỏi phải được thực hiện thông qua các dự án cụ thể hướng tới các
mục tiêu trước mắt và lâu dài đã đặt ra trong quy hoạch tổng thể đó. Đây là
nguyên tắc cơ bản, có vị trí quan trọng hàng đầu. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nghiên
cứu, xây dựng quy hoạch tổng thể, chúng ta mới có cái nhìn tổng quát hiện trạng
và giá trị các mặt của di tích ở từng địa bàn cụ thể của Hà Nội, từ đó xác định
những định hướng cơ bản, kế hoạch và giải pháp tổng thể bảo vệ và phát huy giá
trị các di tích lịch sử cách mạng trong mối quan hệ chặt chẽ với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Mặt khác, cũng chỉ trên cơ sở quy
hoạch tổng thể, chúng ta mới xác định được các dự án cụ thể nhằm bảo vệ và phát
huy giá trị di tích lịch sử cách mạng, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ việc khai
thác, phát huy giá trị di tích, phát triển du lịch, nhằm từng bước thực hiện
quy hoạch chung.
- Đảm bảo bảo vệ tốt nhất tính nguyên gốc và tính toàn vẹn của di tíchlịch sử
cách mạng là nguyên tắc cần được quán xuyến trong toàn bộ hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di tích.
Các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội không chỉ là những di sản văn hóa vật thể
tiêu biểu, mà ở đó còn kết tinh những giá trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần phong
phú, đa dạng và đặc sắc. Việc vận dụng những nhận thức khoa học, mới mẻ về tính
nguyên gốc của di tích (được xác định tại các công ước quốc tế, đặc biệt là tại
Văn kiện Nara Nhật Bản, 1994, trong toàn bộ các hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, vì vậy trở thành vấn đề hết sức cần
thiết và bổ ích.
- Mọi hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội
đều cần được tiến hành trên cơ sở giải quyết tốt nhất mối quan hệ biện chứng
giữa bảo tồn và phát triển, văn hóa và kinh tế, trước mắt và lâu dài. Theo đó,
cần giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa chức năng thuộc tính vốn có của các di
tích với nhu cầu của xã hội đương đại, phải kết hợp tốt nhất giữa việc sử dụng
những kinh nghiệm truyền thống đã sáng tạo nên các di tích với việc ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại..., nhằm đảm bảo đưa các
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đạt được những hiệu quả cao nhất mà
không làm tổn hại hoặc làm suy giảm giá trị vốn có của di tích. Mặt khác, việc
bảo vệ và phát huy giá trị di tích cũng không được cản trở các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, mà phải tạo điều kiện thuận lợi để giá trị nhiều mặt của
di sản tích thực sự trở thành nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời, thông qua các hoạt động sinh động ấy, các giá trị tinh thần truyền
thống cách mạng của nhân dân Hà Nội và cả nước được giữ gìn, phát huy cao nhất
trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
- Cần đặc biệt coi trọng việc giải quyết mối quan hệ giữa trách nhiệm và lợi ích
của các cộng đồng cư dân trong toàn bộ các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội. Như đã trình bày, có rất nhiều di tích lịch
sử cách mạng ở Hà Nội vốn là những công trình xây dựng phục vụ nhu cầu của các
tổ chức, cá nhân khác nhau, sau đấy, do được gắn kết với các sự kiện danh nhân
lịch sử cách mạng và kháng chiến, nên trở thành di tích lịch sử cách mạng. Do
đó, giá trị sử dụng là thuộc tính vốn có ban đầu của di tích. Ngày nay, với việc
bảo vệ và phát huy giá trị các di sản ấy, với tư cách đó là những di tích lịch
sử cách mạng, nhằm vào những mục đích rộng lớn hơn (giáo dục truyền thống, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội...), chúng ta
đã mở rộng giá trị xã hội cho các di tích này. Vì vậy, nhân dân không chỉ là
những chủ nhân đầu tiên có trách nhiệm giữ gìn các di tích đó, mà họ còn cần
được thực sự hưởng lợi từ những hoạt động khai thác, phát huy giá trị di tích
của cộng đồng.
- Cần quan tâm giữ gìn tính thiêng của di tích lịch sử lịch sử cách mạng ở Hà
Nội để bảo vệ và phát huy có hiệu quả giá trị các di tích. Các di tích lịch sử
cách mạng trở thành thiêng liêng vì ở đó ghi dấu, phản ánh những phẩm giá của
các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Thủ đô những người đã sẵn sàng hy sinh tất cả
cho thắng lợi của cách mạng.
Tuy nhiên, do tính thiêng của di tích nói chung bao giờ cũng được hình thành
trên cơ sở những yếu tố rất nhạy cảm (không gian thiêng, dấu ấn thiêng, những
sinh hoạt văn hóa tinh thần mang tính thiêng liêng…), nên việc giữ gìn tính
thiêng trong quá trình bảo vệ và khai thác di tích, đặc biệt là trong trường hợp
đưa di tích trở thành một sản phẩm du lịch, rất cần được quán triệt và thực hiện
tốt nhất để đảm bảo không xảy ra quá trình giải thiêng, và theo đó, là quá trình
các di tích bị “chết”, thậm chí bị huỷ hoại, mà rất khó cứu vãn.
Những mục đích và nguyên tắc được trình bày trên đây cũng chính là định hướng
chính cho toàn bộ các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội. Những mục đích và nguyên tắc đó được hình thành trên cơ sở cách
tiếp cận mới về di tích và những đổi mới trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di tích hiện nay. Những mục đích và nguyên tắc đó cũng được xuất phát từ
thực trạng di tích và hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội trong thời gian qua, đồng thời xuất phát từ nhu cầu của xã hội
hiện đại.
3.2 - Một số giải pháp chính:
3.2.1- Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật:
Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật kết hợp với việc nâng cao
năng lực Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, làm cho Luật Di
sản văn hóa thực sự đi vào đời sống xã hội. Trước mắt, cần xây dựng và ban hành
quy chế đầu tư đặc thù cho hoạt động tu bổ và tôn tạo di tích. Thực tế chỉ rõ về
bản chất, công tác tu bổ hoàn toàn khác biệt với công tác sửa chữa các công
trình cũ và xây dựng cơ bản các công trình dân dụng mới. Vì thế việc áp dụng
Nghị định 52/NĐ-CP về Quản lý đầu tư và xây dựng không phù hợp với đặc thù di
tích (từ khâu khảo sát, điều tra, thiết kế, thẩm định và thi công tu bổ di
tích).
Việc áp dụng quy định đấu thầu thi công tu bổ di tích cũng như việc tách bạch
giữa đơn vị tư vấn thiết kế và đơn vị thi công tất yếu sẽ hạn chế chất lượng
công trình, nhất là trong trường hợp triển khai các dự án tu bổ, tôn tạo di tích
lịch sử cách mạng tại đô thị Hà Nội. Cơ chế đấu thầu thi công đối với các dự án
tu bổ di tích, đặc biệt là di tích lịch sử cách mạng cũng còn mặt bất cập. Bởi
vì các dự toán kinh phí tu bổ là dựa trên cơ sở nhu cầu cấp thiết để “chữa bệnh”
cho di tích, nếu đấu thầu hạ giá thành tu bổ tức là làm cho di tích không được
“chữa bệnh” theo "toa thuốc" đặt ra. Cho nên cần chấp nhận cơ chế chỉ định thầu
hoặc chí ít cũng là đấu thầu hạn chế.
3.2.2- Tăng cường phối hợp liên ngành trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và
lồng ghép các dự án đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng Hà Nội: Đây
là giải pháp mang lại khả năng tiếp cận đa chiều, xử lý tổng hợp, toàn diện
những vấn đề liên quan tới tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội.
Các cơ quan Trung ương và Hà Nội, ngay từ khi tiến hành quy hoạch xây dựng trụ
sở, phát triển đô thị, quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội, nếu có sự phối hợp
chặt chẽ, sẽ xác định rõ phạm vi di tích cần được bảo tồn, các công trình dự
kiến xây dựng không được làm ảnh hưởng tới di tích, nhất là các di tích lịch sử
cách mạng - phần nhiều là những "di tích sống". Theo đó, các di tích là đối
tượng sẽ đồng thời được bảo tồn và khai thác, tránh không phải điều chỉnh các
quy hoạch trong tương lai gây tốn kém, lãng phí. Các dự án đầu tư được lồng ghép
linh hoạt như thế cũng sẽ giúp Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo các bộ, ngành và
Hà Nội cùng phối hợp đầu tư nhằm đạt được những mục tiêu chung nhất.
3.2.3- Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ và phát
huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội: Đây là giải pháp phải được thực
hiện thường xuyên, liên tục. Bởi vì chúng ta hiểu rõ nhận thức, dư luận xã hội
gây áp lực lớn lao như thế nào tới hành vi của từng cá nhân và cộng đồng xã hội.
Đó cũng là giải pháp tích cực nhất nhằm thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội
hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội.
3.2.4- Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử
cách mạng ở Hà Nội: Giải pháp này thể hiện và cần được thực hiện ở hai mặt: Một
mặt, tăng cường hội nhập quốc tế, tiếp thu công nghệ tiên tiến, tranh thủ nguồn
vốn tài trợ cho các dự án tu bổ tôn tạo di tích lịch sử cách mạng; mặt khác,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giới thiệu giá trị các di
tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội làm cho bè bạn quốc tế hiểu đúng về truyền thống
yêu nước, cách mạng của nhân dân Hà Nội và dân tộc Việt Nam cùng những giá trị
tư tưởng, thẩm mỹ của các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội. Đó cũng là con
đường thích hợp nhất để thu hút khách du lịch đến thăm Hà Nội, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng.
3.3- Một số giải pháp - đề xuất cụ thể:
Từ những nhận thức trên đây, để đẩy mạnh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, chúng tôi đề xuất một số giải pháp,
nhiệm vụ cụ thể, cần được giải quyết cấp bách, cụ thể như sau:
3.3.1- Cần khảo sát, nghiên cứu kỹ để xác định đúng nguồn gốc sở hữu của các di
tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, trên cơ sở đó, trừ những trường hợp đặc biệt,
sẽ thực hiện việc Quản lý và sử dụng di tích theo đúng chủ sở hữu gốc của các
công trình xây dựng, địa điểm nay được xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng
này; hạn chế tới mức thấp nhất việc nhà nước hóa quyền sở hữu di tích.
3.3.2- Cùng đó, cần nghiên cứu để "trả lại" (có thể bằng hoạt động sống, cũng có
thể bằng cách tổ chức trưng bày...) công năng vốn có của các công trình xây
dựng, địa điểm trước khi được xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng (Chẳng hạn:
Di tích 48 Hàng Ngang vốn là cửa hàng buôn bán tơ lụa, di tích 90 Thợ Nhuộm vốn
là tư gia của nhà tư sản...). Được như vậy, các di tích sẽ sống động, hấp dẫn
hơn.
3.3.3- Về Quản lý, tổ chức xếp hạng di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, cần lưu
ý một số vấn đề sau đây:
- Cần có quy định "mềm" hơn về việc quy định khu vực bảo vệ di tích - các di
tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội, nhất là các di tích trong khu vực nội thành, có
thể chỉ khoanh vùng khu vực bảo vệ 1 (không nhất thiết có đầy đủ cả 2 khu vực
bảo vệ).
- Cần tăng cường việc nghiên cứu lập hồ sơ xếp hạng cấp Thành phố các di tích
lịch sử cách mạng chưa có đủ tiêu chí để xếp hạng di tích quốc gia, qua đó tạo
ra cơ sở pháp lý, khoa học vững chắc cho việc giữ gìn, phát huy giá trị các di
tích này được lâu dài.
- Thực hiện phân cấp Quản lý rõ ràng, triệt để đối với các di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội, qua đó xác định trách nhiệm, quyền lợi cụ thể của các cấp, các
ngành, các đoàn thể đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
3.3.4- Cần kịp thời nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể bảo vệ và phát huy
giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội đến năm 2020, từ đó xác định cụ thể
kế hoạch lộ trình tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị đối với từng di tích cụ thể
trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của Thành phố.
3.3.5- Nghiên cứu lựa chọn 1 - 2 di tích lịch sử cách mạng tiêu biểu để thực
hiện việc đầu tư tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị trong một dự án liên ngành,
đồng bộ, tập trung, nhằm đưa di tích trở thành một sản phẩm văn hóa - du lịch
hoàn chỉnh, coi đó là mô hình thí điểm để từ đó nhân rộng ra việc áp dụng đối
với các di tích khác.
3.3.6- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan văn hóa với các công ty lữ hành du
lịch trong việc tổ chức các hoạt động văn hóa - du lịch nhằm bảo vệ và khai thác
hiệu quả nhất các di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội (thiết lập các tua du lịch
gắn kết các di tích lịch sử cách mạng hoặc gắn kết các di tích lịch sử cách mạng
với các di sản văn hóa khác ở Hà Nội; nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của du khách
và tổ chức các dịch vụ để đáp ứng; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ của
cả 2 ngành....).
3.3.7- Thực hiện việc gắn kết hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch
sử cách mạng ở Hà Nội với giáo dục học đường: Thường xuyên phối hợp tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu về di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội; đưa vào chương trình
học tập của các cấp học việc định kỳ tổ chức cho các học sinh tham quan, học tập
ngoại khóa tại các di tích lịch sử cách mạng...
4- Thay lời kết:
Giải quyết tốt các vấn đề trên đây sẽ mang lại kết quả là, di tích lịch sử cách
mạng ở Hà Nội sẽ được khai thác, phát huy một cách hiệu quả nhất. Những lợi ích
kinh tế được mang lại cho nhà nước và nhân dân các địa phương, sẽ là một kết quả
tất yếu. Nhưng, điều quan trọng hơn, là sự hình thành những giá trị về mặt xã
hội: Chính những hoạt động này sẽ trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục truyền thống cách mạng của nhân dân Thủ đô, giúp cho các thế hệ nhân
dân Hà Nội thấm thía sâu sắc hơn công lao vĩ đại của Đảng, Bác Hồ và các thế hệ
cha anh đối với Hà Nội và cả nước... Đồng thời, cũng qua đây, những tinh hoa văn
hóa của tổ tiên để lại sẽ không chỉ được bảo tồn, mà còn ngày càng được được tôn
vinh, trở thành niềm tự hào của người dân ở các địa phương, và của cả dân tộc.
Và như vậy, có thể khẳng định rằng, mục tiêu và hiệu quả của hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng ở Hà Nội của chúng ta là nhằm tạo lập
được một môi trường văn hóa - xã hội điển hình - nơi giáo dục, đào luyện nhân
cách văn hóa để từng bước hình thành nguồn nhân lực của Thủ đô Hà Nội có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế./.
(Thanglonghanoi/Vietnam+)