06/11/2023
|
09:33:32
Quận Hà Đông: Dải lụa mềm trải dài suốt hàng ngàn năm
|
Làng lụa Vạn Phúc cách trung tâm Thủ đô Hà Nội chừng 11 km về phía Tây Bắc. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN) |
Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, cách trung tâm 11km về phía
TâyQuận Hà Đông phía Bắc giáp quận Nam Từ Liêm và huyện Hoài Đức; Phía
Nam giáp huyện Thanh Oai và huyện Chương Mỹ; Phía Đông giáp huyện Thanh
Trì và quận Thanh Xuân; Phía Tây giáp huyện Hoài Đức và huyện Quốc Oai.
Lịch sử hình thành và phát triển
Hà Đông là vùng đất địa linh nhân kiệt trải từ sông Đáy đến sông
Nhuệ. Xưa, làng Cầu Đơ thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa nổi tiếng với
cây cầu Đơ sơn trắng toát, mái ngói đỏ tươi bắc qua dòng sông Nhuệ xanh
trong.
Năm 1831 vua Minh Mạng chọn vùng đất bao bọc bởi sông Đáy, sông Tô
Lịch và sông Hồng để lập ra tỉnh Hà Nội, lấy thành Thăng Long làm tỉnh
lỵ.
Năm 1888, tỉnh Hà Đông được thành lập, tỉnh lỵ đóng ở làng Cầu Đơ,
nên lúc đó được gọi là tỉnh Cầu Đơ. Năm 1904, tỉnh Cầu Đơ đổi tên là
tỉnh Hà Đông, tỉnh lỵ là thị xã Hà Đông. Năm 1965, hai tỉnh Hà Đông và
Sơn Tây được sáp nhập lại thành tỉnh Hà Tây và thị xã Hà Đông trở thành
tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây.
Ngày 27/12/2006, Chính phủ ra Nghị định số 155/2006/NĐ-CP thành lập
thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ 3, ngày 29/5/2008, từ ngày 1/8/2008, cùng với toàn bộ
tỉnh Hà Tây, thành phố Hà Đông được nhập về thủ đô Hà Nội.
Ngày 8/5/2009, Chính phủ ra Nghị quyết số 19/NQ-CP về việc thành lập quận Hà Đông
thuộc thành phố Hà Nội trên cơ sở toàn bộ 4.791,74 ha diện tích tự
nhiên với 17 phường trực thuộc của quận Hà Đông là Hà Cầu, La Khê, Mộ
Lao, Nguyễn Trãi, Phú La, Phúc La, Quang Trung, Vạn Phúc, Văn Quán, Yết
Kiêu, Biên Giang, Dương Nội, Đồng Mai, Kiến Hưng, Phú Lãm, Phú Lương,
Yên Nghĩa.
Hà Đông nằm giữa giao điểm của Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hòa Bình và
quốc lộ 70A. Hà Đông cũng là nơi khởi đầu của quốc lộ 21B, nối trung tâm
Hà Nội với các huyện phía Nam của Thủ đô và tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh
Bình.
Di tích - Danh thắng
Trên địa bàn quận Hà Đông có các di tích lịch sử như chùa Văn Quán, Bia Bà, chùa Trắng, đình La Khê, đình Cầu Đơ, chùa Ngòi...
Lụa Hà Đông.
Hà Đông có lịch sử lâu đời với nhiều sản vật phong phú, nhưng nổi
tiếng nhất, được biết đến nhiều nhất, và được yêu thích nhất chính là
lụa Vạn Phúc. Lụa Vạn Phúc là lụa sản xuất tại làng Vạn Phúc, người ta
còn gọi là lụa Hà Đông.
Các sản phẩm lụa Hà Đông. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)
Làng lụa Vạn Phúc, nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội,
là một trong những làng nghề lâu đời bậc nhất Việt Nam. Làng Vạn Phúc
xưa là làng Việt cổ (Nhất thôn, nhất xã) có nghề dệt lụa nổi tiếng từ
lâu đời (hơn 1000 năm).
Lụa Hà Đông đã đi vào ca dao, tục ngữ "The La, lụa Vạn, sồi Phùng" (the La Khê và lụa Vạn Phúc đều thuộc Hà Đông), lụa Hà Đông còn khiến người nghe phải đắm say với câu hát "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông."
Lụa Vạn Phúc có đặc điểm mềm, mỏng, nhẹ, thoáng mát nhưng không rạn,
nhăn; qua thời gian màu không phai, hoa văn vẫn sắc nét, sợi lụa không
bị xê dịch. Bởi vậy, lụa Vạn Phúc xưa kia chỉ dành để may y phục cho vua
chúa và các gia đình quan lại quyền quý.
Khoảng 20 năm đổ về trước, lụa Vạn Phúc là điểm đến ưa thích của cả
người Hà Nội lẫn khách phương xa đến Hà Nội. Ngôi làng nhỏ yên bình nằm
cách trung tâm Hà Nội hơn 10km, được trang trí bằng những tấm lụa dệt đủ
màu sắc, những chiếc áo, chiếc khăn, chiếc túi đẹp đẽ, tinh xảo. Người
ta có thể dễ dàng lựa chọn một sản phẩm nơi này như một món quà tặng
sang trọng khi trở về.
Trải qua thời gian, đến nay làng Vạn Phúc còn rất ít người dệt lụa,
cũng gần như không còn ai nuôi tằm lấy tơ. Những công đoạn sản xuất lụa
cũng đã được cơ giới hóa rất nhiều.
Tuy nhiên, nếu dành thời gian đi vào từng ngõ ngách của ngôi làng
nhỏ, ta vẫn có thể bắt gặp dải lụa nhiều màu sắc rực rỡ được phơi trên
sân, những khung cửu, guồng quay tơ thủ công được những gia đình lâu đời
lưu giữ lại, như muốn níu kéo lại một phần của lịch sử huy hoàng của
cha ông xưa.
Hà Đông là quận có diện tích lớn nhất trong số 10 quận của Hà Nội. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)
Làng rèn Đa Sỹ
Cái tên Đa Sỹ được dùng cho tới ngày nay mang ý nghĩa là vùng đất
khoa bảng với nhiều tiến sỹ. Làng Đa Sỹ là nơi sản sinh ra 11 tiến sỹ, 1
lưỡng quốc trạng nguyên được lưu danh trên văn bia Quốc Tử Giám.
Với trí tuệ, tài năng, người Đa Sỹ tạo nên những sản phẩm rèn nổi
tiếng phục vụ đời sống nhân dân. Các sản phẩm rèn Đa Sỹ từ con dao, cái
kéo đến những sản phẩm nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp có mặt khắp
mọi miền.
Năm 2001, làng rèn Đa Sỹ đã được cấp bằng công nhận làng nghề truyền
thống, đền đáp cho những nỗ lực bền bỉ giữ lửa cho nghề suốt hàng trăm
năm qua.
Làng dệt La Khê
Làng La Khê là một trong bảy làng La thuộc tổng La trước đây, nổi
tiếng là làng Việt cổ trong "tứ quý danh hương Mỗ La Canh Cót."
Làng từ xa xưa đã nổi tiếng là vùng đất tằm tơ, dệt lụa. Ðất làng do
phù sa sông Hồng, sông Ðáy, sông Nhuệ bồi đắp nên, vì vậy rất màu mỡ,
thích hợp cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ.
Các sản phẩm the, sa, vân, địa, quế, gấm vóc của La Khê nổi tiếng với
những họa tiết, hoa văn tinh xảo. So với sồi, đũi, loại hàng the, sa
mỏng, nhẹ hơn, nhưng lại rất bền và đẹp, được lựa chọn để may trang phục
cho các tầng lớp quý tộc trong xã hội phong kiến xưa.
Sau năm 1954, nghề dệt the tạm lắng, cả làng La Khê quay sang dệt vải
bông, khăn mặt, thảm đay theo kinh tế tập trung, phục vụ sinh hoạt
trong thời chiến tranh. Năm 2002, Làng nghề được khôi phục, nhiều nghệ
nhân đã mày mò tìm hiểu để giữ một nghề truyền thống của các bậc tiền
nhân
Chùa Mậu Lương
Chùa Mậu Lương hay còn gọi là chùa Đại Bi tại phường Kiến Hưng, chùa
tọa lạc trong khuôn viên có diện tích hơn 2.000m2, tổng thể mặt bằng
kiến trúc bao gồm tam quan, chùa chính, đền thờ, nhà tế, nhà khách và
nhà hậu, được phân bố theo hình chữ Chi.
Chùa có hệ thống tượng Phật bằng đất sơn son thếp vàng, niên đại sớm
nhất là thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ một số hoa văn điển hình và đặc
trưng như phù điêu bia đời Cảnh Hưng với tên Đại Bi tự bi lục.
Trán bia phía trước chạm rồng, kiểu nghệ thuật thời nhà Mạc, điểm
xuyết quanh rồng là hạt tròn nổi cùng những cụm mây. Trán bia phía sau
chạm phượng chầu mặt trăng, hình thức chạm phóng khoáng mang nét dân
gian, cánh phượng như cánh chim, cánh gà bình thường, tượng trưng cho sự
phồn thực, dân dã.
Bia Bà
Nếu chùa Hà là nơi cầu duyên, phủ Tây Hồ là nơi cầu tài cầu danh thì Bia Bà được cho là nơi cầu lộc nổi tiếng đất Hà thành.
Bia Bà
thờ Bà Đệ Nhị Cung Phi triều Mạc Thái Tông. Bà tên thật là Trần Thị
Hiền - Hoàng phi của Vua Mạc Đăng Doanh. Lúc còn sống bà hay giúp đỡ
người nghèo khó, hướng dẫn người dân cách làm ăn, mở mang nghề dệt...
Trước khi mất bà trao lại toàn bộ ruộng vườn, tài sản cho nhân dân.
Năm Canh Tuất (1538) bà đã yên nghỉ tại cánh đồng Vang - nơi mảnh đất
quê hương. Tương truyền bà rất linh thiêng, hay hiển linh tiếp tục giúp
đỡ mọi người, nên tư đời này sang đời khác trải qua hơn 550 năm, nhân
dân trong vùng vẫn luôn luôn thờ phụng bà với lòng thành kính nhất.
Nhớ ơn công đức của Đức Bà nhân dân đã lập đền thờ Bà tại cổng làng.
Năm 1982 dân làng La Khê đã rước tấm Bia về khu di tích La Khê để thờ
phụng.
(Vietnam+)