19/06/2023
|
16:06:25
Cổng làng Hồ Khẩu - Nơi lưu giữ miền ký ức đẹp chốn kinh kỳ
|
Cổng làng Hồ Khẩu ngày nay. |
Ẩn trong lòng đô thị Hà Nội hiện đại, tấp nập đâu đó vẫn còn những ngôi làng cổ
với gốc đa, giếng nước, sân đình. Bước qua cổng làng, ta như chìm đắm vào một
kho tàng truyện kể:
“Ngày xưa ở đây là làng cổ, làng rất cổ. Là làng làm giấy dó nổi tiếng cả Kinh
thành Thăng Long. Giấy dó này được sử dụng để in kinh, sử trong nhà chùa, sắc
phong của quan lại ngày xưa.”
Đó là chia sẻ của ông Bùi Văn Khôi - người đã có 20 năm làm việc trong ban quản
lý di tích làng Hồ Khẩu. Một ông cụ đã ở tuổi xế chiều, lưng có phần còng xuống,
mái tóc bạc phơ nhưng đầu óc vẫn còn rất minh mẫn.
Khi nhắc đến cổng làng mình,
ông Khôi hãnh diện và nói bằng giọng đầy tự hào “đây là làng của bác” và bộc
bạch: “Nói về xa xưa, bác năm nay đã 82 tuổi, trước đây từ đời bố của bác, ông của bác
đã có cổng làng này. Nó đã tồn tại trên dưới 1000 năm đổ lại đây. Làng Hồ Khẩu
của bác hiện tại có 4 cổng làng: cổng Đình, cổng Đông, cổng Giếng và cổng Chùa.
4 cái cổng này nằm dọc theo đường Thụy Khuê và chỉ có làng Hồ Khẩu có 4 cổng
làng. Trong làng còn có thêm 1 cổng Cầu Dừa to đẹp, uy nghi lắm.”
Ngoài việc khoác lên mình lớp sơn vàng mới, cổng làng Hồ Khẩu gần như vẫn giữ
được nguyên nét kiến trúc thuở ban đầu. Cổng được xây dựng theo cấu trúc tam
quan: 1 cổng chính to và 2 cổng phụ nhỏ hơn. Các phần cột trụ đều có đắp hình
trái dành dành cách điệu chầu về 4 phương của đất trời. Mặt ngoài của 2 cột trụ
chính có đắp đôi câu đối rất dài nói về lịch sử của làng. Bậc tam cấp và chiếu
nghỉ trước cổng cũng được người dân giữ lại hoàn toàn: “Cổng Kim Môn của các bác có 2 câu đối 2 bên rất dài tả về ngày mà 2 vị thánh là
Cống Lễ và Cá Lễ đi đánh quân Nguyên ở sông Bạch Đằng thắng trận trở về. Ý của 2
câu đối đó là tả sự nồng nhiệt, sự chào đón của tất cả nhân dân.”
Ở làng Hồ Khẩu, không phải ngẫu nhiên lại có tới 4 cái cổng cùng dẫn lối vào
làng. Trong xã hội phong kiến xưa có sự phân bậc giai cấp rất rõ ràng giữa vua
quan và dân chúng. Điều này đã được tái hiện qua kiến trúc cổng làng Hồ Khẩu:
“Cổng Đình là cổng quanh năm đóng cửa, chỉ tiếp đón những vị quan to về thì mới
mở cửa. Ở cổng có chữ Hạ mã, là phải xuống ngựa và đi bộ vào. Mà chỉ có quan to
mới được đi vào cổng chính là cổng Kim Môn, cổng to nhất của làng. Dân thường và
quan nhỏ phải đi vào cổng phụ là cổng Giếng và cổng Chùa.”
Trải qua cả nghìn năm, đến nay, người dân làng Hồ Khẩu vẫn giữ lại quy ước này.
Mỗi năm đến ngày lễ hội của làng, những lễ lạt cũng như lễ rước kiệu sẽ đi qua
cổng chính, thể hiện lòng thành kính của dân làng tới các bậc thánh tôn.
“Rước kiệu là phải đi qua cổng chính, không được đi qua cổng phụ. Ngày 15/4 sẽ
có rước kiệu, làm rất là to. Lễ này là lễ truyền thống cầu mát cho dân làng, cầu
cho quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt.”
Dưới cổng làng ta có thể bắt gặp hình ảnh người nông dân ngồi nghỉ sau buổi làm
đồng. Hình ảnh đôi lứa hẹn hò những đêm trăng sáng. Hay bóng người mẹ già đứng
ngóng tin con: “Hệ thống cổng làng rất gần gũi, thân thương. Những người xa quê cũng phải đi
qua cổng làng, người đi xa về cũng phải đi qua cổng làng. Những người đi bộ đội
chống Mỹ, chống Pháp ngày xưa đều dưới cổng làng. Là cái nơi rất tâm linh, linh
thiêng, đi thì nhớ, ở thì thương, lúc nào cũng đôn đáo trong lòng cái hệ thống
cổng làng của làng mình.”
Đối với những ai đã sống lâu năm ở mảnh đất này, chiếc cổng như người nhà, như
người dân trong làng. Từ khi làng Hồ Khẩu còn là làng nghề làm giấy dó nức tiếng
của Thăng Long đến hiện tại người dân đã mưu sinh bằng đủ thứ nghề khác nhau thì
cổng làng vẫn sừng sững ở đó, như một chứng nhân lịch sử:
“Chiến tích của nó là khi thằng Pháp đi qua làng mình nó thấy cái làng này giết
nhiều bọn tây của chúng nên nó giơ súng nó bắn. Hiện nay còn những chỗ nó bị rơi
xuống, bị vỡ ra.”
Gần một tiếng đồng hồ dạo quanh làng, thứ tôi cảm nhận được nhiều nhất là sự
thân thiện, nồng hậu của những người dân nơi đây. Những tiếng chào, hỏi han ríu
rít; đâu đó ở hiên nhà bên, vài cô bác cũng đang uống nước chè, cười nói rôm rả.
Tách khỏi sự ồn ào, tấp nập của phố thị ngoài kia, sau cánh cổng làng, mọi thứ
dường như chậm lại nửa nhịp, cứ yên ả trôi qua:
“Nếu mà nói về nếp sống làng, tình làng nghĩa xóm, giữa con người với con người,
nó gần gũi, thân thương, giúp đỡ lẫn nhau. Chứ nó không như ở ngoài phố, nhà
mình sát nhà người ta mà hỏi ông ý bà nọ chẳng ai biết. Nhưng ở đây có thể cháu
hỏi bác có thể biết được tít xóm trong kia là con nhà ai, ở đâu biết hết. Tình
cảm dân làng gần gũi.”
Chiều tà, khu vực cổng làng Hồ Khẩu trở nên tấp nập, người đánh cờ, người hóng
mát, người rục rịch đi chợ chiều,... Trong đôi ba câu chuyện mà họ kể với nhau
vẫn có những câu chuyện về cổng làng:
“Nó khác hẳn chứ. 3 cái cổng này đều có bậc hết, bây giờ làm thành dốc lên để đi
lại cho nó dễ. Dắt xe máy mà lên bậc này thì bó tay luôn. Có cái cổng giữa là
vẫn còn bậc.”
“Thực ra là có cái người ta muốn giữ, có cái thì không giữ được. Một số cái cổng
trong các ngõ người ta làm lại giống được nhưng có cái người ta sửa lối lên
xuống. Có cái cổng người ta không xây như cũ nữa mà xây đời mới. Tại vì đô thị
hóa, nếp sống văn minh lên. Có khi người nhiều tuổi muốn giữ nhưng người trẻ
người ta không muốn. Thậm chí nhà mình mới xây 20 chục, con trẻ nó lên nó phá đi
xây mới.”
Làng xưa nay đã lên phố phường, nghề làm giấy dó cũng chẳng còn nhưng người dân
nơi đây vẫn tự hào về truyền thống của làng, tự hào về những chiếc cổng làng, về
mái đình cổ xưa. Trong mắt họ ánh lên sự tự hào, sự nhớ nhung cùng hoài niệm về
những ngày xưa cũ: “Đối với các bác thì tự hào lắm, phấn khởi lắm, sung sướng lắm. Cảm thấy tự hào
bởi không đầu có như làng của bác. Không có cái cổng làng nào mà nó cổ kính như
làng của bác. có thể nói thẳng với cháu là nhất Hà Nội.”
“Cổng làng trước đây là toàn để chơi, trẻ con buổi tối, buổi chiều là ra đấy
chơi. Trước là không có nhà như thế đâu, ở đằng trước cổng là bậc đá hết, đá to,
ngồi mát rượi lên. Mấy cây bàng là để loa phóng thanh, nghe các tin tức.”
Theo quan niệm dân gian, cổng làng là nơi chứa đựng “hồn làng”. Chiếc cổng làng
là một trong những nét văn hóa truyền thống, ngự trị trong tâm thức từ ngàn năm
của người dân nước Việt. Những chiếc cổng rêu phong ở làng Hồ Khẩu vẫn còn hiện
hữu, như tô điểm thêm nét cổ kính của Thủ đô ngàn năm văn hiến./.