24/08/2010
|
14:58:21
“Làm cho Hà Nội thành một thành phố châu Âu”
Triển lãm “Quy hoạch đô thị và địa giới hành chính Hà Nội giai đoạn 1873-1954”
sẽ khai mạc vào hôm nay (16/8) tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I (số 18 đường
Trung Yên 1, Cầu Giấy, Hà Nội) và sẽ kéo dài đến hết năm.
68 bản đồ và một số tài liệu dạng văn bản về quy hoạch đô thị được trưng
bày là những sử liệu quan trọng đối với Hà Nội.
Triển lãm sẽ trưng bày một số tài liệu lưu trữ gốc và một số tài liệu lần
đầu tiên được công bố rộng rãi. Người xem sẽ có cơ hội tận mắt chứng kiến quang
cảnh Hà Nội từ các con phố mang tên Pháp, hình ảnh Thành cổ Hà Nội đến các dự án
quy hoạch mở rộng Thành phố trong lịch sử.
Có lẽ để hiểu hơn về Hà Nội ngày nay, cũng như để định hướng xây dựng một
Hà Nội mới trong tương lai, người ta không thể không tìm hiểu về những “lớp
lang” quy hoạch trong quá khứ của Hà Nội.
“Trở thành một thành phố châu Âu”
Ngay từ khi đặt ách đô hộ lên Bắc Kỳ, thực dân Pháp đã đặt ra vấn đề quy
hoạch Hà Nội. Ngày 27/1/1886, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ, cơ quan đại diện cho quyền
lực của Chính quyền thuộc địa Pháp tại Bắc và Trung Kỳ đã được thành lập.
Chính tại phiên họp đầu tiên vào ngày 2/5/1886, dưới sự chủ tọa của Paul
Bert, Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ đầu tiên, Hội đồng Bảo hộ đã quyết định thành lập
tại Hà Nội một Ủy ban Thành phố để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là “làm cho
Hà Nội trở thành một thành phố châu Âu.”
Với mục đích trên, người Pháp bắt đầu quy hoạch bằng việc xác định địa
giới thành phố Hà Nội. Chính quyền thuộc địa đã phân thành phố ra làm hai khu
vực chính là khu vực dành cho người Âu và người bản xứ.
Ngày 11/5/1886, Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ Vial ký quyết định số 1 giao cho
Khu Công chính Bắc Kỳ việc đo vẽ bản đồ thành phố Hà Nội. Các kỹ sư của Khu Công
chính có quyền thực hiện nhiệm vụ của mình ở bất cứ nơi nào trong thành phố, kể
cả trong khu vực đất thuộc quyền sở hữu tư nhân của người Âu cũng như người bản
xứ.
Tiếp đó, Pháp đã ra Nghị định phân định ranh giới ban đầu của thành phố Hà
Nội. Theo đó, thành phố Hà Nội lúc đó bắt đầu từ Sở Thuế quan (nay là Bảo tàng
Cách mạng Việt Nam), qua Blockhaus Nord (Lô Cốt Bắc nay thuộc phố Phó Đức
Chính), đường Grand Bouddha (nay là phố Quán Thánh), đường bao quanh Thành Hà
Nội, cửa Sơn Tây kéo dài đến đường Phủ Thanh Oai (phố Văn Miếu, một phần phố
Quốc Tử Giám và một phần phố Tôn Đức Thắng), Pagode des Corbeaux (Văn Miếu- Quốc
Tử Giám), chùa Sinh Từ, đường Huế (nay là phố Huế), công sự Huế, qua đê thuộc
khu vực nhượng địa cho đến tận sông Hồng.
Diện tích thành phố Hà Nội thời điểm đó là 1.220ha - có thể coi là bức
tranh quy hoạch nhỏ nhất về Hà Nội khi bước vào thời cận đại.
Tuy nhiên, trong phiên họp thường kỳ ngày 6/10/1889 của Hội đồng thành
phố, Đốc lý Hà Nội đã cho rằng “ranh giới hiện tại của thành phố không được rõ
ràng, khó nhận biết, khó xác định về đất đai và đã bỏ ra ngoài thành phố một vài
vùng buôn bán và công nghiệp.”
Và ranh giới thành phố đã được phân định lại, Phía đông của thành phố được
xác định giáp với dòng chảy của sông Hồng; phía Bắc, phía Tây và phía Nam được
xác định bởi một đường thẳng chạy từ cột mốc số 1 đến số 15.
Ngoài việc quy hoạch về địa giới hành chính của Hà Nội, người Pháp tập
trung mở rộng khu vực người Âu bằng nghị định bắt phá bỏ nhà tranh vách đất ở
khu phố Paul Bert (này là phố Tràng Tiền) năm 1886 rồi đến Nghị định cấm xây
dựng và phải dỡ các nhà tranh vách đất trong thời hạn 6 tháng trong khu vực bao
gồm các phố mà ngày nay là phố Trần Hưng Đạo, sông Hồng, phố Lê Duẩn đến tận khu
vực Thành Hà Nội.
“Quy hoạch ô bàn cờ”
Bước sang giai đoạn 1895-1928 và các giai đoạn tiếp theo dưới thời thuộc
Pháp, việc mở rộng thành phố Hà Nội vẫn được tiến hành để tạo thành các khu dự
trữ, vành đai xanh. Diện tích tỉnh Hà Nội năm 1901 đã là 1.300km2.
Đến những năm 1920, người Pháp tập trung vào việc quy hoạch các công trình
xây dựng. Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là quy hoạch và xây dựng phát
triển theo xu hướng mới.
Bên cạnh nhu cầu về sử dụng, người Pháp còn quan tâm nhiều đến thẩm mỹ
kiến trúc của mỗi ngôi nhà. Toàn quyền Đông Dương đã sử dụng các kiến trúc sư
giỏi từ Pháp và các thuộc địa khác để thiết kế các công trình lớn tại Hà Nội và
một số thành phố khác. Năm 1921, Sở Kiến trúc và Đô thị được thành lập với người
đứng đầu là kiến trúc sư Enest Hébrard.
Nhiều văn bản quy định được ban hành phục vụ quản lý và điều hành công
việc quy hoạch và xây dựng trong thành phố. Nghị định số 91 ngày 7/7/1921 của
Thống sứ Bắc Kỳ về các công trình xây mới tại một số đường của thành phố Hà Nội.
Nghị định gồm 7 điều quy định “tại 26 con đường của thành phố Hà Nội và tất cả
các đại lộ được mở trên khu đất của Công ty Điền thổ, từ đại lộ Carnot (nay là
phố Phan Đình Phùng) đến đường Duvilliers (nay là phố Nguyễn Thái Học), chỉ được
phép xây dựng những căn nhà kiểu Âu, cấm xây nhà kiểu bản xứ hoặc nhà chia ô. Số
người sử dụng ở mỗi phòng ngủ tối đa là 1người/25m2.”
Năm 1924, bản quy hoạch đô thị do Enest Hébrard thiết lập tạo cơ sở cho
việc quản lý đô thị (theo đạo luật Comudet của Pháp). Mọi công trình xây dựng
phải tuân Thủ đồ án quy hoạch và phải có sự phối hợp để tạo ra những không gian
đô thị cân đối với bố cục chặt chẽ, có tính tượng trưng, nhấn mạnh trọng điểm.
Nhìn trên bản đồ có thể thấy rõ: ngoài việc chỉnh trang khu “36 phố
phường,” thành phố mở ra những khu xây dựng mới theo “quy hoạch ô bàn cờ,” tạo
thành những đại lộ, những ô phố khang trang mà nay ta còn thấy rõ ở những “khu
phố Tây.”
Ngoài việc quy hoạch và cải tạo các tuyến phố, các công trình rải đá mặt
đường, lát vỉa hè, xây dựng hệ thống cống rất được chú trọng. Trong giai đoạn
này, nhiều công trình được xây dựng đều mang phong cách kiến trúc Á Đông, tiêu
biểu là công trình trường Đại học Đông Dương./.
(TT&VH/Vietnam+)