21/02/2013
|
20:29:00
Mùa Xuân thăm các di tích thắng cảnh chùa Hương
Quần thể thắng cảnh chùa Hương bao gồm mười tám đền, chùa, hang, động
nằm rải rác ở bốn thôn: Yến Vĩ, Đục Khê, Hội Xá và Phú Yên thuộc
địa phận xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Hà
Nội.
Các chùa, động ở đây phần lớn được phát hiện và xây dựng vào
các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Đa số dựa vào sườn núi hoặc nằm dưới
thung lũng, những nơi có địa thế đẹp để kiến tạo.
Mười tám điểm được chia thành bốn khu như sau:
1- Khu Hương Thiên có tám di tích là: Động Hương Tích, Chùa Thiên
Trù, Đền Trình Ngũ Nhạc, Chùa Giải Oan, Đền Cửa Võng, Chùa Tiên Sơn,
Chùa Hinh Bồng và Động Đại Binh.
2- Khu Thanh Hương gồm Chùa Thanh Sơn và Động Hương Đài.
3- Khu Long Vân gồm bốn điểm: Chùa Long Vân, Động Long Vân, Động Cây
Khế, Hang Thánh Hóa.
4- Khu Tuyết Sơn gồm bốn di tích: Chùa Bảo Đài, Động Ngọc Long,
Chùa Ngư Trì (Chùa Cá), và Đền Trình Phú Yên.
Nếu có đủ thời gian quý khách phải đi trọn ba ngày mới hết.
Chùa Thiên Trù
Được khởi dựng từ thời Lê Thánh Tông, năm Đinh Hợi (1467) niên hiệu Quang
Thuận, thứ 8 đến niên hiệu Chính Hòa năm thứ 7 (1686), Hòa thượng Trần Đạo Viên
Quang tái thiết. Đến năm 1942 thì toàn bộ công trình hoàn chỉnh trở thành một
lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”.
Trong kháng chiến chống Pháp, thực dân đã tàn phá ba lần vào những năm
1947, 1948, 1950. Ngày 11 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1989), Ban Xây dựng Chùa Hương khởi
công xây dựng lại. Đến ngày 11 tháng Giêng năm Tân Mùi (1991) thì khánh thành.
Hiện nay, với quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng khiến Thiên Trù trở
thành trung tâm của thắng cảnh Hương Sơn.
Chùa Giải oan
Chùa Giải oan nằm trên sườn núi, phía trái đường đi Hương Tích do sư tổ
Thông Dụng khai sáng vào thời Lê Thuần Tông năm Ất Mão (1735), niên hiệu Long
Đức thứ 4 ở trên núi Long Tuyền. Đầu năm 1928, Đại sư Thanh Tích tôn tạo lại
theo thế “Ỷ bích sơn”.
Năm 1955, Ban Xây dựng Chùa Hương trùng tu. Quanh chùa có am Phật tích
động Tuyết Kình, am Từ vân. Đặc biệt trong chùa còn có giếng thiên nhiên Thanh
Trì nước trong suốt và không bao giờ cạn. Tương truyền Phật Bà Quán Âm đã tắm ở
giếng này để tẩy bụi trần, nghỉ ngơi tọa thiền trước khi vào cõi Phật.
Động Hương Tích
Động này vốn có từ thời kỳ vận động tạo sơn, được phát hiện vào thế kỷ XI
và đưa vào thờ Phật năm 1687. Phật thoại truyền rằng: đức Quán Thế Âm Bồ Tát ứng
thân làm công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành
9 năm và thành đạo quả ở động này nên đặt tên là Hương Tích (dấu vết thơm tho).
Đặc biệt ở đây có pho tượng Phật Bà Quán Âm bằng đá xanh tạc thời Tây Sơn
và hàng vạn nhũ đã nhấp nhô với biết bao hình thù kỳ lạ. Thuyết phong thủy cho
rằng động Hương Tích là con rồng chúa đang há miệng vờn ngọc. Đây là điểm chính
của thắng cảnh thường gọi là chùa chính.
Chùa Tiên Sơn
Chùa Tiên Sơn có từ trước từ thời Lê – Trịnh. Năm Canh Dần (1770) Tĩnh Đô
Vương Trịnh Sâm đã đề một bài thơ bát cú ca ngợi cảnh đẹp của động này. Sau đó
động bị đất đá và cây rừng che lấp. Năm Qúy Mão (1903) Hội Thiện thôn Yến Vỹ tìm
thấy và mở lại.
Năm Giáp Thìn (1904) đục thêm cửa đá lối vào bên phải. Năm Đinh Mùi (1907)
tạc ba pho tượng đá trắng như bạch ngọc và đến năm Tân Hợi (1911) tạc thêm hai
pho nữa. Về sau một số công trình nhân tạo bị giặc Pháp tàn phá.
Năm 1962, Hội Thiện này đã cúng về nhà chùa sát nhập vào danh mục khu di
tích để quản lý. Năm 1994 đến năm 1996, Ban Xây dựng Chùa Hương phục hồi và tôn
tạo Tổ đường, Bảo điện và Tả Hữu vu. Trong động thờ Phật và thân quyến đức Chúa
Ba (dựa theo truyện Phật Bà chùa Hương).
Đền Cửa Võng
Đền Cửa Võng còn gọi là Đền Trấn Song, Vân Song do Đại sư Thanh Tích khai
sáng vào năm 1908 ở thế giá mắc võng cửa sơn xuyên, trước mặt có dãy núi “rồng
chầu mặt nguyệt”. Năm 1993 và 1995 Ban Xây dựng Chùa Hương trùng tu lại và mở
rộng sân đền.
Nơi đây thờ Thanh Y công chúa, tục gọi là Bà Chúa Thượng Ngàn, ý là: Sơn
Tinh Triều Mường công chúa Lê Mại Đại vương và 12 thị nữ tiên cô là người dân
tộc thiểu số. Đền này còn là nơi ở của các tiên nữ thường xuyên mang tin tức từ
chùa ngoài vào chùa trong.
Động Đại Binh
Động Đại Binh còn gọi là Thần Binh được khai sáng vào ngày mùng 2 tháng 3
Tân Mùi (1991) do ông Nguyễn Văn Bạo và ông Bùi Văn Xế chủ trương. Ngày mùng 6
tháng Giêng năm Quý Dậu (1993) hai cư sỹ nói trên viết đơn cúng cho nhà chùa và
sát nhập vào khu di tích của Giáo hội Phật giáo.
Động này vốn có từ lâu, lưu dấu tích một đạo quân người dân tộc thiểu số
do hai ông Đinh Công Tráng và Đinh Công Vân khởi nghĩa chống Pháp, sau bị vây
hãm và tuẫn tiết ở nơi này. Ông đã cho khắc hai chữ “Đại Binh” lên cửa động để
ghi dấu. Cho nên cũng có tên là hang Nghĩa Quân.
Động Hinh Bồng
Năm Nhâm Thân (1932), Hội Thiện thôn Yến Vỹ khai sơn một tòa động nhỏ trên
ngọn núi cao ở thung lũng Cây Gạo gọi là động Hinh Bồng với sự tài trợ của bà
Hải Khoát, Phật tử thuần thành ở Hải Phòng. Năm sau tạc tượng Phật bằng đá trắng
để phụng sự.
Năm Giáp Tuất (1934 ) thỉnh Ni sư Đàm Tuyết về trụ trì. Ngày 18 tháng 7
năm Quý Dậu (1993) xây dựng thêm chùa Bồng Doanh ở bên cạnh duy trì khu thánh
tích này./.
Trung Hiền