24/09/2009 | 08:48:00

Thời kỳ tiền Thăng Long

Thành Cổ Loa ở huyện Đông Anh, Hà Nội.

Năm 1010, Lý Công Uẩn ban Chiếu dời đô và quyết định chọn thành Đại La (Hà Nội) làm đô thành của nước Đại Việt, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của nhà nước phong kiến độc lập và mở ra một giai đoạn lịch sử mới có ý nghĩa quyết định vận mệnh dân tộc của đất Thăng Long.

Thời kỳ tiền Thăng Long

Các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở xã Cổ Loa huyện Đông Anh những viên đá cuội có dấu vết bàn tay con người ghè đẽo cùng với những hòn đá cuội tìm thấy từ Lào Cai đến Nghệ Tĩnh. Đó là những công cụ chặt, nạo của người nguyên thuỷ sống cuối thời đá cũ cách ngày nay từ 2 vạn năm đến hơn 1 vạn năm. Đó là giai đoạn Sơn Vi.

Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều di tích nối tiếp nhau, hình thành một chuỗi lịch sử liên tục từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt trên chặng đường 20 thế kỷ trước công nguyên.

Theo thuật ngữ khảo cổ, Hà Nội có mặt các di tích thuộc các giai đoạn: Phùng Nguyên (4.000-3.000 năm cách ngày nay), Gò Mun (đầu thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên) và Đông Sơn (giữa thiên niên kỷ 1 đến đầu Công nguyên).

Trong các di chỉ đã đào, có lưỡi cày, mai, liềm đều bằng đồng, có hạt na, hạt trám, có hạt gạo cháy và vỏ trấu, có rìu đá, rìu đồng, dao và mũi tên đồng, có cả hòn chì lưới bằng đá và đất nung ứng với thời đại các vua Hùng theo truyền thuyết.

Vua Hùng là truyền thuyết nhưng Thục Phán chống Tần là hiện thực lịch sử. Khoảng năm 218 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng phái 50 vạn quân tiến đánh miền Bách Việt. Người Việt đứng đầu là Thục Phán dựa vào núi rừng tổ chức kháng chiến. Sau 10 năm quân Tần bị thiệt hại nặng buộc phải rút.

Thục Phán thay vua Hùng dựng nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa và xây tòa thành ốc. Hà Nội với tòa thành đó bắt đầu đi vào lịch sử với tư cách một trung tâm chính trị xã hội.

Lên ngôi từ năm 208 trước Công nguyên, đến năm 179 trước Công nguyên, Thục Phán bị Triệu Đà, tướng nhà Hán, lừa lấy mất lẫy nỏ (một bí mật của kỹ thuật chế tạo cung nỏ) và bị diệt vong. Từ đấy Âu Lạc sa vào ách thống trị của các triều đại phong kiến Phương Bắc (thời kỳ Bắc thuộc này kéo dài tới nghìn năm).

Nước Âu Lạc thời Hán thuộc bị chia thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Hà Nội thuộc quận Giao Chỉ nhưng suốt năm thế kỷ đầu không thấy sử sách ghi. Mãi tới giữa thế kỷ V, Hà Nội được ghi là trung tâm huyện Tống Bình (khoảng 454-456 sau Công nguyên), ít lâu sau huyện được nâng cấp thành quận.

Quận Tống Bình gồm 3 huyện: Nghĩa Hoài, Tuy Ninh ở Nam sông Hồng (Từ Liêm, Hoài Đức hiện nay), còn Xương Quốc ở bờ Bắc (Đông Anh, Gia Lâm hiện nay). Quận trị là vùng nội đô hiện nay.

Năm 544, Lý Bí khởi nghĩa, dựng thành ở cửa sông Tô Lịch đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương - xưng đế, đặt Quốc hiệu là Vạn Xuân. Ông dựng chùa Khai quốc bên sông Hồng (sau chuyển vào Hồ Tây thành chùa Trấn Quốc). Cháu ông là Lý Phật Tử chuyển đóng đô ở Cổ Loa, tồn tại đến năm 602 mới bị nhà Tùy đánh bại.

Nhà Đường (618-907) thay nhà Tùy đặt "đô hộ phủ". Đất Việt được gọi là "An Nam" với 12 châu, 50 huyện. Trung tâm An Nam đô hộ phủ là Tống Bình. Vào khoảng giữa đời Đường, Tống Bình có tên mới là Đại La, do Cao Biền đã đắp thành Đại La năm 866 tại đây.

Từ năm 905 đến 930, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ nổi lên đuổi bọn quan lại phương Bắc nắm giữ chính quyền An Nam đô hộ phủ.

Tới năm 938 Nam Hán sang xâm lăng. Ngô Quyền đã tiêu diệt chúng, xưng vương, định đô tại Cổ Loa. Cổ Loa sau một nghìn năm lại trở thành kinh đô của nước Việt./.

(TTXVNVietnam+)

Bản để in Lưu vào bookmark