12/11/2012
|
16:22:00
Hà Nội: Những điều chưa biết về Hội đền Thụy Khuê
Đền Thụy Khuê - vốn tên là đền Thụy Chương – là
đền cổ từ lâu đời. Đền toạ lạc ở số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ. Xưa, cổng
đền hướng phía tây thành Thăng Long. Vào các năm 1608, 1618, triều Lê hai lần tổ
chức lễ cầu đảo xin mưa thuận gió hoà, đều linh ứng; nhân đó cho lập biển “Hạ
mã”. Nhưng vì hướng tiền trông vào đường thành nên có nhiều bất tiện trong giao
thông, nên năm 1621 đổi sang hướng chính bắc. Sau đó dân làng đào giếng Ngọc ở
trước cửa. Khi đào, tìm được đôi voi đá nguyên khối, bèn đưa lên xây bệ trước
cổng để thờ. Từ đó gọi là đền Voi phục Thụy Chương để phân biệt với đền Voi Phục
Thủ Lệ (theo văn bia tại đền).
Tên Thụy Chương tồn tại đến năm Thiệu Trị lên
ngôi (1840), kiêng tên huý vua, đổi là Thụy Khuê (đường Thụy Chương cũng đổi
thành đường Thụy Khuê).
Thần tích ghi, đức thánh Linh Lang là con vua Lý
Thánh Tông. Xưa, ở xã Bồng Lai, huyện Từ Liêm có người con gái họ Dương tên là
Ngoan, cha mất sớm, cô ở với mẹ. Cô Ngoan nổi tiếng xinh đẹp từ bé. Năm mười tám
tuổi được đưa vào cung, làm “đệ nhị cung phi”. Sau hai năm chưa có thai, vua bèn
lập một cung ở Hồ Tây để bà ở. Một con giao long đầu đội mũ hoa quan (?), mình
vẩy ngũ sắc quấn lấy cung phi. Bà sợ hãi ngất đi bất tỉnh. Trở về, bà tâu mọi
chuyện vua rõ. Thánh Tông cả giận, họp đình thần kể tội thuỷ thần, sai quân bắn
tên xuống hồ để diệt trừ. Bỗng dưng vua thấy mê man, phải dựa vào long án, đang
lúc mơ màng chợt thấy một người mặc áo xanh cầm cờ vàng đến bên long án nói:
- Ba năm nữa sẽ có giặc xâm lấn bờ cõi, nếu
không có người tài giỏi thì giữ sao được nước. Nhà vua hãy bình tĩnh, cần lo mọi
việc phòng bị ngay.
Cũng từ đó bà Ngoan có thai, đến tháng Hai năm
Nhâm Thìn thì sinh một người con trai mặt rồng, mắt phượng, hàm én mày ngài. Vua
mừng lắm đặt tên là Hoàng Lang, đưa cả hai mẹ con về cung.
Ba năm sau, có giặc Chiêm xâm lấn cõi Nam Hải,
vua sai sứ đi chiêu mộ hiền tài. Khi sứ giả đi qua nơi Hoàng Lan ở, cậu bé đang
nằm liền khai khẩu bảo mẹ cho mời sứ giả vào. Khi sứ giả vào, Hoàng Lan bảo
rằng: Ngươi về tâu với phụ hoàng sắm cho ta một ngọn cờ đào thật lớn, chọn cho
ta một von voi đực cực khoẻ để ta dẹp giặc dữ.
Sứ giả về triều tâu với vua, vua bèn sai kén
voi, sắm cờ rồi đưa lại cho Hoàng Lang. Hoàng Lang vươn mình đứng dậy, cưỡi voi,
cầm cờ tiến thẳng đến Nam Hải. Bọn giặc đánh tan. Ông thu quân về nhà, đi tới
đâu cũng được nhân dân tới trước đầu voi đón rước.
Về kinh đô ít lâu sau, Hoàng Lan bị bệnh đậu
mùa, nhà vua hết lòng trông nom, cho mời các thầy thuốc đến chữa, nhưng bệnh vẫn
không thuyên giảm. Vua bèn nói: “Nếu phải con ta thì hãy mau lành bệnh, nếu
không phải thì hoá đi, đừng là yêu nghiệt trong cung nữa”. Hoàng Lang thưa rằng:
“Thần vốn là thuỷ thần đầu thai để giúp nước. Nay công việc đã xong, xin được về
Thuỷ phủ”. Nói xong, bèn hoá thành một con thuồng luồng lao xuống Hồ Tây biến
mất. Tại nơi con rắn xuống, nhân đó lập đền thờ. Vua Lý phong cho là Linh Lang
đại vương, dân Thụy Chương lập đền thờ tại nơi rắn đi xuống Hồ Tây để thờ. Miền
quê Thủ Lệ (Bồng Lai) quê mẹ không có bài vị nên mới cho người đến lấy trộm bài
vị về thờ. Hai làng vì thế mà xô xát, sau khi biết rõ thì kết chạ, nhận nhau là
an hem, hàng năm thay nhau mở hội tưởng niệm thần.
Ngày trước, mỗi khi tổ chức lễ hội thường có quy
mô hàng tổng, theo câu ca vẫn còn lưu truyền tại Thụy Khuê:
Mồng Mười, thánh hoá giờ thiêng
Mười hai, tiệc huý, hội đền vua ra
thì các cụ lại giải thích rằng: Ngài mất vào
ngày mồng mười tháng Hai, nhà vua biết tin truyền lập bài vị để thờ, phong ngài
là Linh Lang đại vương. Đền thờ lập ngay tại nơi ngài mất nay là đền Thụy
Chương, đến ngày 12 tháng Hai nhà vua thân hành đến tế. Khi Linh Lang mất, dân
Thủ Lệ đến xin bài vị về thờ, dân Thụy Chương không cho, nên dân Thủ Lệ bèn lội
qua sông mà trộm bài vị. Sau khi hai làng kết chạ, Thụy Chương làm anh. Hàng năm
đến ngày 10 tháng Hai ngày thánh hoá, dân Thụy Chương sang Thủ Lệ làm lễ. Ở Thủ
Lệ, các bô lão phải đảm đương việc “dọn trưởng”. Đường đi của đám rước từ Thụy
Khuê sang Thủ Lệ khá xa, nên có trạm nghỉ là miếu Trắng (nay đã bị phá để mở
đường 32).
Về ngày hội đền Voi Phục là ngày hội chung của
cả làng, cả tổng nên dân nô nức đi xem hội. Do tốn kém nên cứ năm năm mới tổ
chức lớn một lần, hàng năm mở hội lệ. Mồng 10 tháng Hai là chính hội: làng Thụy
Khuê cử một đám rước xuống Thủ Lệ làm lễ. Nghi thức đoàn đi có: Cờ hội do một cụ
mang dẫn đầu - tiếp đến là cờ tứ linh, cờ ngũ hành - bộ chấp kích – dàn nhạc bát
âm - trống cái – chiêng lớn - bốn cô múa “đánh bồng”- hương án. Tiếp là kiệu bát
cống do mười hai người trai cởi trần, đóng khố khiêng (diễn lại tích Thủ Lệ vượt
sông Tô Lịch vào đền chép trộm bài vị) – Các quan viên bô lão đi theo. Đoàn rước
đi rất dài, qua nhiều chỗ khó khăn: lên núi Bò phải vừa bò vừa đỡ kiệu, khi
xuống núi có làng Hào Nam đỡ vai, đến làng Ngọc Khánh thì Hào Nam giao lại Ngọc
Khánh rồi từ đó chỉnh trang rước về đền Thủ Lệ.
Đến đền Thủ Lệ làm lễ cáo yết. Các cụ ở Thụy
Khuê lại quay về đền Thụy, làm lễ bao sái đồ thờ, chuẩn bị “dọn trưởng” đón đoàn
Thủ Lệ rước sang.
Ngày 12 tháng Hai, đám rước lại khởi hành từ đền
Thủ Lệ sang Thụy Chương, và cũng trải qua các bước như rước từ ban đầu. Tới Thụy
Khuê, đám rước tập kết ở đình Trên (nay đã phá), chỉnh trang rồi mới vào đền làm
lễ. Khi tan đám, đoàn nào ra về, cai hàng đô đánh ba tiếng trống khẩu, các giai
kiệu đứng lên hú vang “hí…hà…” tỏ vẻ vui mừng.
Vì truyền thuyết nói rằng: “Khi Linh Lang đại
vương hoá, biến thành giao long bò rừ trong trướng ra Hồ Tây nên có nhiều nơi
thờ vào các ngày khác nhau: Vạn Phúc thờ ngày mồng 9 tháng Hai; Thủ Lệ làm lễ
ngày mồng 10 tháng Hai; Trường Lâm làm lễ ngày 11 tháng Hai. Thụy Chương làm lễ
ngày 12 tháng Hai; Hào Nam làm lễ ngày 13 tháng Hai…”
Ngoài việc tế lễ ở đền Thụy Chương, ngày trước ở
bãi đất chợ Thụy Khuê (quãng giữa hai đình Trên và đình Dưới, nay là cửa hàng
lương thực) có trò chơi đu bay. Ngoài ra có tổ chức hát chèo, có năm làm ở đình
Trên, có năm làm ở đình Dưới. Ngày 16 tháng Hai làng Thụy có tổ chức thi cỗ gọi
là “ăn nhắm”. Lễ hội đền Thụy Chương lúc đó mới kết thúc./.
(Thăng Long Hà Nội/Vietnam+)