28/12/2012
|
10:24:00
Hà Nội ba mươi sáu phố phường - xưa và nay
Sách “Hà Nội băm sáu phố phường” của Thạch Lam viết: “Người Pháp có Paris,
người Anh có London, người Tàu (Trung Quốc) có Thượng Hải… Trong các sách vở,
trên các báo chí, họ nói đến thành phố của họ một cách tha thiết, mến yêu..."
"Chúng ta cũng có Hà Nội, một thành phố rất nhiều vẻ đẹp vì Hà Nội đẹp thật và
cũng vì chúng ta mến yêu. Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội cũng như người
Paris chính hiệu yêu mến Paris..." "Trong những cuộc phiếm du-phiếm du ngoài các
phố Hà Nội là một cái thú vô song, chỉ người Hà Nội có… ở những hang cùng ngõ
hẻm của làng xa, hay những nương mật thẳm trong rừng núi, ban chiều vẫn có nhiều
người ngóng về một phương trời để cố trông cái ánh sáng mờ của Hà Nội chiếu lên
nền mây." "Để cho những người mong ước kinh kỳ ấy, và để cho những người ở Hà
Nội, chúng ta khuyến khích yêu mến Hà Nội hơn, chúng ta nói đến tất cả những vẻ
đẹp riêng của Hà Nội, khiến mọi sự đổi thay trong ba mươi sáu phố phường đều có
tiếng vang ra khắp mọi nơi”. Hà Nội hiện nay có 9 quận, 5 huyện gồm 128 phường,
98 xã và 6 thị trấn, nhưng đó là “phường và phố” Hà Nội hiện nay, còn ca dao cổ
có câu: “Hà Nội băm sáu phố phường. Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh”.
Khu phố cổ "36 phố phường" của Hà Nội được giới hạn bởi đường Hàng Đậu ở phía
Bắc, phía Tây là đường Phùng Hưng, phía Đông là đường Trần Nhật Duật và Trần
Quang Khải, phía Nam là đường Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ, Hàng Thùng. Khu phố
cổ được biết đến hiện nay được thiết kế và quy hoạch theo phong cách kiến trúc
Pháp với mạng lưới đường hình bàn cờ, nhưng dấu vết lịch sử thì lại in đậm ở
nhiều lớp văn hoá chồng lên nhau. Thăng Long-Hà Nội là một vùng văn hoá truyền
thống đặc biệt bởi vì đến hết thế kỷ XVI Thăng Long-Đông Đô-Đông Kinh vẫn là đô
thị độc nhất của nhà nước Đại Việt lúc ấy. “Kẻ Chợ” tên gọi khác của Thăng
Long-Hà Nội xưa có thành, có thị, có bến, có 36 phường buôn bán và thợ thủ công,
có chợ ô ven đô, có các làng nghề chuyên canh và chế biến nông sản. Dân tài tứ
xứ kéo về Thăng Long-Hà Nội, họ cọ xát, đua trí, đua tài tạo nên nét tài hoa độc
đáo chỉ có ở người Hà Nội, ở đất Hà Nội, đó là cách sành mặc, sành chơi, sành
ăn, sành làm. Thương nhân và thợ thủ công sống rải rác trong tất cả các phố
phường.
Phố giàu có như Mã Mây tập trung khá nhiều nhà buôn lớn, nhất là thương nhân Hoa
Kiều. Đường xá ở đây được lát sạch sẽ. Các phố được ngăn với nhau bởi những
chiếc cổng lớn xây như bức tường mà bề rộng chiếm cả mặt đường, ban đêm được
đóng một cách nghiêm ngặt. Trong mỗi phố là những dãy nhà san sát làm theo kiểu
chồng bao diêm mà hiện nay chúng ta còn thấy ở các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng
Ngang, Hàng Đào... Các dãy nhà này vừa là nhà ở lại vừa là cửa hiệu. Dưới thời
nhà Lý, nhà Trần, Phố cổ Hà Nội bao gồm nhiều phường trong tổng số 61 phường
thời đó. Vào thời Lê, đầu thế kỷ XVI, Hà Nội trở thành Đông Kinh, khắp nơi đổ về
buôn bán làm ăn trong 36 phường lúc bấy giờ, và dần dần, nơi đây chính là khu
Phố Cổ thời nay. Cùng với những yếu tố nổi trội về lịch sử, khu Phố Cổ xứng đáng
được xem như là một không gian, mà tại đó một thời đã thể hiện một dấu ấn không
thể phai mờ về một cuộc sống đô thị khá toàn diện về kinh tế, xã hội, tập quán,
truyền thống.
Phường
Vào thời Lê, "phường" ngoài nội dung chỉ các tổ chức của những người cùng làm
một nghề (phường chèo, phường thợ) thì còn một nội dung nữa, chỉ những khu vực
địa lý được coi là đơn vị hành chính cấp cơ sở ở kinh thành Thăng Long. Sử cũ
còn ghi Thăng Long đời Lê gọi là phủ Phụng Thiên. Chia ra hai huyện Vĩnh Xương
(sau đổi ra Thọ Xương) và Quảng Đức (sau đổi ra Vĩnh Thuận). Mỗi huyện 18
phường.
Như vậy, Thăng Long có 36 phường. Suốt ba thế kỷ, nhà Lê vẫn giữ nguyên sự phân
định hành chính đó. Phường là tổ chức nghề nghiệp (chỉ có ở kinh thành Thăng
Long) còn đơn vị tương đương với làng xã ở vùng nông thôn. Đây là nơi sống và
làm việc của những người làm cùng một nghề thủ công. Trong số các nghề mà sau đó
phát triển ở Hà Nội là nghề nhuộm, dệt, làm giấy, đúc đồng, rèn và gốm. Ở đây
còn có nghề đúc tiền (sắt và đồng), đóng thuyền, làm vũ khí và xe kiệu.
Khi xưa, khu 36 phố phường phát triển trong môi trường có nhiều ao hồ. Khu này
được sông Tô Lịch bao bọc ở phía Bắc, sông Hồng ở phía Đông và hồ Hoàn Kiếm ở
phía Nam. Khu vực chợ và nhà ở đầu tiên được đặt tại nơi sông Tô Lịch và sông
Hồng gặp nhau. Cửa sông Tô Lịch là bến cảng và có thể có rất nhiều con kênh nhỏ
nằm rải rác trong khu Phố Cổ. Từ thế kỷ XV, khu Kinh Thành gọi là phủ Trung Đô
gồm 2 huyện với tổng số 36 phường. Trong thời kỳ này đa phần huyện Thọ Xương,
hầu hết các phố đều là nơi buôn bán, rất nhiều đền và chùa cũng được xây vào
thời kỳ này.
Đến khoảng giữa thế kỷ XIX, hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận vẫn y nguyên 13 tổng
nhưng con số các phường, thôn, trại rút xuống mạnh (do sáp nhập): Thọ Xương còn
113 phường, thôn, trại. Vĩnh Thuận còn 40 phường, thôn, trại. Tổng cộng là 153
phường, thôn, trại. Như vậy, nhà Lê cho Thăng Long hưởng một quy chế riêng (gọi
là Phủ, trực thuộc trung ương và suốt ba thế kỷ chỉ gồm có 36 phường). Ngược
lại, nhà Nguyễn đã đánh đồng Thăng Long với các phủ khác, phải lệ thuộc vào tỉnh
và cũng có tổng, có thôn, có trại như mọi nơi. Trên thực tế không có cái gọi là
"Hà Nội 36 phố phường".
Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36 phường hoặc là Hà Nội thời Minh Mạng có 239
phường, thôn, trại và Hà Nội thời Tự Đức với 153 phường, thôn, trại.
Phố
Phố khác hẳn phường. Nếu phường nguyên nghĩa là một khu vực hành chính thì phố
nguyên nghĩa là chỗ bán hàng, nơi bày hàng (tức là như ta nói ngày nay là cửa
hàng, cửa hiệu). Phố có thể là một ngôi nhà, một chỗ trống lấy làm nơi bày hàng
hóa để buôn bán. Ví dụ như cụm từ “phố Hàng Trống” nguyên nghĩa chỉ là một ngôi
nhà, một cửa hàng bán trống. Phố Hàng Chiếu vốn chỉ một nhà bày bán chiếu... Các
"phố" (phố với nghĩa là cửa hàng, cửa hiệu) tập trung ken sát nhau thành một dãy
nên được gọi tắt là phố.
Hàng
Đặc điểm chung của các phố cổ Hà Nội là nhiều tên phố bắt đầu bằng từ "Hàng",
tiếp đó là một từ chỉ một nghề nghiệp nào đó. Thí dụ: Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng
Mã, Hàng Thiếc...
Từ đời Lê (thế kỷ XV), nhiều người Trung Quốc được phép cư trú ở Thăng Long (Hà
Nội), họ rủ nhau đến làm ăn buôn bán ở phố Hàng Ngang (xưa kia ở hai đầu phố có
dựng hai cái cổng chắn ngang đường, tối đến đóng lại). Do đó thành tên Hàng
Ngang. Như tên gọi Hàng Đường có rất nhiều cửa hàng bán đường, mứt, bánh, kẹo.
Sát với chợ Đồng Xuân là phố Hàng Mã - chuyên bán các mặt hàng truyền thống làm
từ các loại giấy màu. Từ đầu phố Hàng Mã đi thẳng sang phố Hàng Chiếu dài 276m
(nơi bán nhiều loại chiếu thảm bằng cói) là đến Ô Quan Chưởng (cửa Đông Hà) di
tích khá nguyên vẹn của một trong 36 phố phường Thăng Long xưa hay phố nghề rất
điển hình: Hàng Thiếc. Mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao
thay đổi, đến nay đã có hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào,
Hàng Tre, Hàng Sắt, Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè...
Trong các phố của Hà Nội hiện nay, có những phố nguyên có chữ Hàng nhưng đã được
mang tên mới như Hàng Cỏ (tức phố Trần Hưng Đạo ngày nay), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái
Học), Hàng Giò (Bà Triệu phía gần Hồ Hoàn Kiếm), Hàng Lọng (Đường Nam bộ rồi Lê
Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn (Quang Trung), Hàng Bột (Tôn Đức
Thắng). Khu phố cổ Hà Nội từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX cơ cấu đô thị
trở nên dày đặc hơn. Khu phố cổ được mở rộng tập trung theo hướng trung tâm của
khu phố. Các ao, hồ, đầm, dần dần bị lấp kín để lấy đất xây dựng. Khu phố cổ Hà
Nội là một quần thể kiến trúc độc đáo, mang nặng bản sắc dân tộc Việt, có sắc
thái đặc trưng của một khu dân cư sản xuất chủ yếu là nghề thủ công truyền
thống.
Nơi đây diễn ra đồng thời nhiều hoạt động trong đời sống hằng ngày của cư dân đô
thị như sinh sống, bán hàng sản xuất, lễ hội, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, tạo
nên một sức sống mãnh liệt để khu phố cổ tồn tại vĩnh viễn và phát triển không
ngừng. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, quy hoạch Hà Nội bắt đầu có sự
thay đổi. Khu phố cổ có nhiều thay đổi mạnh mẽ, đường phố được nắn lại, có hệ
thống thoát nước, có hè phố, đường được rải nhựa và có hệ thống chiếu sáng, nhà
cửa hai bên đường phố được xây gạch lợp ngói. Bên cạnh những nhà cổ mái ngói
xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền được làm theo kiểu cách Châu Âu. Khu phố cổ
Hà Nội từ 1954-1985, dân cư có sự thay đổi, nhiều gia đình từ chiến khu trở về
được bố trí vào ở khu phố cổ. Kể từ đó số hộ ở trong mỗi số nhà cứ tăng dần lên
từ một hộ đến hai, ba hộ, rồi mỗi hộ gia đình lại phát triển thêm theo kiểu tam
đại, tứ đại đồng đường...
Từ 1954 trở đi, do chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, chính
sách phát triển sản xuất, chính sách kinh tế của thời bao cấp (Nhà nước đảm nhận
việc cung cấp mọi nhu yếu phẩm cho cuộc sống của dân cư qua hệ thống các cửa
hàng bách hoá và dịch vụ...). Toàn bộ khu phố cổ nơi buôn bán sầm uất đã trở
thành khu dân cư ở (1960-1983), đa số dân cư trở thành cán bộ, công nhân viên,
phục vụ cho xí nghiệp, hợp tác xã các cơ quan thành phố... Mặt tiền của nhiều
nhà cửa được sửa lại thành mặt tiền nhà ở có cửa ra vào và cửa sổ. Phố xá yên
tĩnh hơn. Sự nhộn nhịp phố xá tuỳ ở từng nơi từng lúc thường theo giờ ca kíp đi
làm vào sáng, trưa, chiều tối, sự nhộn nhịp còn ở các khu chợ, các cửa hàng bách
hoá, cửa hàng chuyên doanh của Nhà nước của hợp tác xã (như chợ Đồng Xuân, chợ
Hàng Da...).
Dân cư ở khu phố cổ cứ tăng dần lên, lấn chiếm các không gian trống của các sân
trong từng nhà. Một số mặt hàng thủ công truyền thống bị mai một. Khu phố cổ từ
1986 đến nay, dưới đường lối đổi mới của Đảng đã khuyến khích mọi tầng lớp nhân
dân xây dựng mở mang phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Buôn bán ở khu phố cổ
dần dần được phục hồi, phát triển và sầm uất hơn xưa. Nhiều ngôi nhà cổ được cải
tạo đổi mới, nhiều nhà xuống cấp, bị hỏng được xây dựng lại với nhiều kiểu cách.
Nhiều đình, đền, chùa được tu sửa. Góp phần vào không khí hoạt động của khu phố
cổ trong một thập kỷ gần đây là lượng khách du lịch đông đảo, là nhân tố tích
cực thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ, văn hoá.
Do vậy, một số nhà ở trong khu phố cổ được cải tạo thành khách sạn mi ni; thành
các quán ăn đặc sản; các cửa hàng ở tầng 1 được trang trí nội thất khang trang
hấp dẫn. Khu phố cổ Hà Nội là hiện thân của lịch sử, văn hóa, kiến trúc kinh kỳ
Thăng Long xưa, mang hồn thiêng khí phách lịch sử dân tộc, là một di tích vô
cùng quý giá của Thủ đô Hà Nội và của cả nước. Chính vì vậy, Bộ trưởng Bộ Văn
hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã ra Quyết định số
14/2004/QĐ-BVHTT xếp hạng khu phố cổ Hà Nội là di tích lịch sử quốc gia.
Đây là niềm vinh dự đối với người dân Thủ đô, đồng thời cũng đặt ra trách nhiệm
không nhỏ không chỉ đối với người quản lý, mà cả đối với bản thân người dân sống
trong khu phố cổ trong việc gìn giữ và bảo tồn khu phố của mình. Từ ngày
1/10/2004 đến nay, tuyến phố đi bộ trong khu phố cổ được hình thành và đi vào
hoạt động. Tuyến phố đi bộ hoạt động vào các buổi tối thứ sáu, thứ bảy và chủ
nhật hằng tuần. Mùa hè bắt đấu từ 20 đến 24 giờ và mùa đông từ 19 đến 24 giờ./.
(Người Hà Nội)