22/12/2012
|
17:20:00
Hà Nội đã "Tây hóa" như thế nào?
|
Đại lộ Đồng Khánh - Nay là phố Hàng Bài. (Ảnh: Internet). |
Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ
16-18m, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. Người ta thấy ở phố Hàng Khảm
một xưởng sản xuất nước có ga, một hiệu bánh mì, một số cửa hàng đồ khô, một cửa
hàng văn phòng phẩm, một số cửa hàng kim khí, một hoặc vài cái chợ, một khách
sạn, hai ba hiệu càphê. Tất cả đều của người Pháp...
Ngoài mặt hàng chính, các cửa hàng đều nghĩ cách đưa các loại hàng rất khác nhau
vào bán. Vì thế các cửa hàng văn phòng phẩm không chỉ quảng cáo “các tiểu thuyết
mới sang theo các chuyến thư” mà còn quảng cáo cho các “ngăn tơ lụa, đồ hộp, bát
đĩa, đồ thủy tinh, đồ dùng của phụ nữ.”
Mặc dù có những cố gắng đó, vào năm 1885, Hà Nội vẫn còn thiếu nhiều thứ và
người ta có thể thấy trên tờ Tương lai Bắc Kỳ số ngày 5/8/1885 một thông báo khá
bình thường nhưng đặc sắc về vấn đề này: Dân chúng Pháp tại Hà Nội yêu cầu:
Một hiệu thịt bò
Một hiệu giặt theo kiểu Pháp
Một hiệu cắt may
Một hiệu sửa chữa giày
Bàn bi-a trong các hiệu càphê
Từ tháng 7/1885, Hà Nội đã có một phòng sửa tóc và trang điểm theo kiểu Paris
(salon parisien) nhưng hiệu thuốc thì mãi từ tháng 6/1888 mới khai trương, ở phố
Hàng Khảm.
Theo lẽ tự nhiên, nghiệp đoàn thương nhân đầu tiên ở Hà Nội có nhiều người tham
dự là nghiệp đoàn các chủ hiệu càphê. Từ năm 1884 tới năm 1885, số hiệu càphê
tăng lên rất nhiều, chỉ riêng phố Hàng Khảm có các hiệu Cafe du Commerce đối
diện Tràng Tiền, “nơi tụ hội của các quý ông thương gia;” Cafe de Paris gần khu
Nhượng địa; Cafe Albin; Cafe de la Place; Cafe Block... Nhưng sớm nhất và nổi
tiếng nhất là Cafe de Beira, “nơi hội tụ của quý ngài sĩ quan.”
Paul Bourde, thông tín viên tờ Thời báo (le Temps) nhận xét: “Hiệu càphê của bà
Beira là một thiết chế của Hà Nội.” Trong các mô tả về các buổi trà lá tại hiệu
càphê này, có phác tả: “Bà Beira, một người có tuổi tốt bụng, choàng khăn, bán
căng tin trong quân đội về hưu, nhưng mắt vẫn còn tinh và nói năng trôi chảy,
cho tăng gấp đôi số bàn ghế trên sân thượng và dưới hiên vì có nhiều người tới
uống rượu ngải: Hà Nội đang sống vội vã...”
Trong những ngày đầu, nếu các hiệu càphê mở dễ dàng thì việc mở khách sạn vất vả
hơn. Những khách đầu tiên tại khách sạn duy nhất tại Hà Nội năm 1884 để lại một
bức tranh không mấy quyến rũ: “Những ngôi nhà bằng sắt móng ngựa vây quanh những
chiếc sân trông ra đầm, những vách ngăn bằng tre trát toocxi qua loa, mái rạ.
Giữa mái và các vách có một khoảng trống năm mươi centimet để thông gió nhưng
các du khách đến Hà Nội vào tháng Hai với nhiệt độ tám độ vào ban đêm thấy ngay
rằng người ta nghĩ tới mùa hè quá sớm! Nếu muốn phòng ấm áp, bạn phải đóng các
cửa sổ con còn nếu muốn sáng, phải mở hết chúng, thành ra không thể đồng thời
làm cho căn phòng vừa sáng vừa ấm áp.”
Khách sạn đầu tiên bằng gạch cho người châu Âu khai trương vào tháng 11/1885 ở
phố Hàng Thêu (nay là Hàng Trống), cạnh tòa báo Tương lai Bắc Kỳ. Khách sạn này
có tên là Đại Khách sạn (Grand Hôtel), nó “có một phòng ăn 50 người, phòng bi-a
được nhập đầu tiên vào Hà Nội, tất cả được lắp kính và ban đêm sáng choang.”
Cuối cùng, cực kỳ tinh tế, “một phòng liệu pháp nước, ở đó vào ban ngày, khách
hàng có thể tắm bằng vòi hương sen bất cứ lúc nào.” Chen giữa phố Hàng Thêu và
hồ, chỗ ngày nay là vườn hoa, Đại Khách sạn bố trí “một cái chòi quê rất đẹp.”
Trên hồ: hai chiếc ca nô duyên dáng cho phép khách quen dạo chơi hoặc luyện tập
sức khỏe.”
Trong khu phố mới, con đường đầu tiên được quy hoạch là đường phố Hàng Khảm. Sau
đó tới lượt phố Hàng Thêu và Hàng Bài, tức đại lộ Đồng Khánh (nay là Hàng Bài),
đồng thời với các phố ở khu buôn bán. Chẳng bao lâu, đường Hàng Khay có thể đi
bộ và đi ngựa riêng biệt.
Khi các đường phố có thể cho xe đi lại được, đầu năm 1884 trú sứ Bonnal cho nhập
từ Nhật hai chiếc xe djinn rickshaws, trong đó một chiếc dành cho tổng đốc để
sao chép lại. Những chiếc xe đầu tiên kiểu này làm dân chúng kinh ngạc.
Sự ngạc nhiên còn lớn hơn khi xuất hiện xe khách công cộng (tramway) vào năm
1885. Đó chỉ là một chiếc xe nhỏ do ngựa kéo chạy qua các phố Hàng Khay và phố
Hội Truyền giáo (nay là phố Nhà Chung).
Phố Hội Truyền giáo hẹp đến nỗi quyết định của cảnh sát ngày 28/7/1885 yêu cầu
những người đi xe ngựa và xe cộ tránh đi cùng giờ với giờ xe khách chạy, một
lệnh có trước quy định đường một chiều 40 năm! Lường trước mọi chuyện, lệnh trên
cũng cấm người lái xe khách cho ngựa phi nước đại và buộc phải bóp còi nhiều lần
ở các giao lộ đông người qua lại.
Cho tới năm 1886, Hà Nội chỉ có hai chiếc xe bốn bánh, một chiếc bằng gỗ kiểu
Colombo (kiểu xe Ấn Độ) của Hội Truyền giáo để Giám mục Hà Nội dùng đi lại.
Chiếc thứ hai kiểu Victoria của viên chỉ huy Henri Riviere. Sau này chiếc
Victoria được bán đấu giá cho ông Coutel, nhà thầu khoán đầu tiên ở Hà Nội...
Hai giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình phát triển khu phố Pháp là sự khai
quang khu vực Hồ Gươm và việc xây dựng trên bờ đông của nó các tòa nhà hành
chính đầu tiên chuyển từ khu nhượng địa ra...
Đồng thời với việc trở thành trung tâm hành chính và thương mại, khu phố mới còn
phát triển về phía bắc bằng cách san lấp một số đầm kẹp giữa Hồ Gươm và sông
Hồng để xây dựng nhà cho công chức thuê, về phía nam bằng cách xây dựng đại lộ
Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo)...
Theo nghị định của công sứ Hà Nội ngày 26/12/1886, trong thời hạn một năm các
nhà lá trên phố Paul Bert (Tràng Tiền ngày nay), phố Hàng Thêu phải phá hủy và
thay bằng nhà gạch lợp ngói.
Thời ấy mọi sự cầu kỳ về quần áo bị loại bỏ thẳng tay. Phụ nữ, tuy còn hiếm,
cũng tự nhiên tới hiệu càphê trong bộ áo choàng đi ngủ còn nam giới trong bộ lòa
xòa như người Hồi giáo. Không nhiều nhưng các trò tiêu khiển hoàn toàn không
thiếu. Thử nghiệm đầu tiên về sân khấu được thực hiện vào năm 1885 trong một lán
gỗ nằm giữa hồ và xưởng phát điện. Nhóm kịch có hai diễn viên chuyên nghiệp và
vợ chồng ông Deschamps. Các cuộc đi dạo cực kỳ hạn chế vì các toán cướp đi lại
trong các khu liền ngay với thành phố nhưng đã được thay thế bằng bơi thuyền,
một việc có thể thực hiện tốt ở Hồ Gươm cũng như Hồ Tây.
Năm 1883 đua thuyền được khai trương trên Hồ Gươm bằng một chiếc thuyền độc mộc
10 người chèo. Các nhà báo Paris trọ bên bờ Hồ Gươm mỗi người có một chiếc
thuyền, ngoài ra còn có hai chiếc ca nô dành cho khách của Đại Khách sạn ở phố
Hàng Thêu...
Là thủ đô trí tuệ của Đông Dương trong tương lai, ngay từ buổi ban đầu, Hà Nội
đã mở ra sự tôn thờ các giá trị tinh thần: nếu Viện Hàn lâm Bắc kỳ chưa đáp ứng
được những gì Paul Bert mong đợi thì Ủy ban Nghiên cứu Nông Công Thương đã có
những phiên họp khá lý thú vào năm 1886 và 1887.
Tờ Tương lai Bắc kỳ do nhà báo
Jules Cousin phụ trách đã cho đăng tải những bài nghiên cứu đặc sắc. Một trong
những cơ sở dịch vụ có tổ chức là nhà in chính phủ và một trong những cửa hàng
tại phố Hàng Khảm là hiệu sách. Đó là những dấu hiệu văn hóa. Từ năm 1886,
L.Gillet mở một phòng đọc sách với giá hai đồng một tháng hoặc 20 xu mỗi cuốn.
Năm 1888, nhà Schneider cho thuê một phần sách trong hiệu sách của mình với cùng
biểu giá.
Từ một thành phố cổ, Hà Nội đã nhanh chóng cuốn vào nhịp điệu cuộc sống hiện
đại.../.
(TT&VH/Vietnam+)