03/12/2012
|
09:50:00
Lệ làng Tương Mai ở quận Hoàng Mai
Trí sự Lê Liên, Giam sinh Nguyễn Công Khuê, Sinh đồ Lê Tích, Hương lão từ
Nguyễn Đình Trí đến Lê Hưng Cảnh, Trưởng thôn từ Nguyễn Đình Xuân đến
Hoàng Kim, trung nam từ Nguyễn Đắc Thanh cùng đồng thôn trên dưới lớn
bé của xã Tương Mai huyện Thanh Trì phủ Thường Tín cùng nhau lập
khoán ước.
Thường nghe: Hương đảng là người trong làng quần cư sinh tụ thành
bè đảng với nhau. Nên người cùng làng nếu như bè cánh riêng tư, ngược
đãi, tàn hại lẫn nhau ngày một thậm tệ, thì rơi vào cảnh bạc ác
bất nhân. Từ khi làng Tương Mai lập đất thì phong tục trở nên thuần
nhất, trên hòa dưới mục, tương thân tương ái, học theo lễ nghi, để trở
thành làng có phong tục thuần hậu. Vì sao vậy? Nước Lỗ có nhiều chân
nho, đâu phải sinh ra đã là Nho, nướ Tề nhiều kẻ trí trá, đâu phải
sinh ra đều là trí trá? Là do tập tục khiến thành như thế! Vậy thì
người muốn làm cho tập tục đó trở nên lương thiện thuần hậu không thể
không suy nghĩ để làm biến cái giả thành chân, biến tục lệ ma quỷ
thành phong tục của lễ nghĩa, để đem sự thuần hậu trở về!
Nay làng Tương Mai tuy bé nhỏ chật hẹp nhưng 1 ấp có 10 nhà trong
đó ắt phải có người có lòng trung tín, há nào chẳng tìm thấy người
hiền? Xét từ cổ xưa tới nay, xã ta văn thì có người đỗ đại khoa, võ
thì có người cầm quân đánh giặc, chẳng phải là khong có người hiền
tài, còn thay đổi phong tục thì lúc nào cũng có người lo lắng. Nhưng
do thời gian đã quá lâu rồi không thể không có những tục lệ hủ bại.
Chỉ mong sửa tệ, phù suy, châm chước lợi hại, những gì cần giữ thì
phải giữ lấy mà những gì phải thay đổi thì nên thay đổi, làm sao
không mất lễ chân chính mà thôi. Nay đem những điều suy luận đó hỏi
người trong thôn thì từ các cụ già đến các em nhỏ, từ trên xuống
dưới, đều một lòng nhất trí như nói ra từ miệng một người. Thế thì,
là bậc đại thụ của làng, không nêu rõ tiêu chuẩn, để mọi người căn
cứ mà theo, thì có được không? Nếu chỉ biên chép những lời suông
chẳng bằng trông thấy ở việc làm. Vậy kê ra như sau:
1. Lệ: Trong làng người làm cha phải hiền từ, làm con phải hiếu
thảo, làm anh phải độ lượng, làm em phải lễ phép, làm chồng phải có
nghĩa, làm vợ phải tin tưởng chồng; những điều đó đã trở thành phép
nước. Nếu ai làm trái sẽ bị trừng phạt đích đáng.
Tứ dân (sĩ, nông, công, thương) ai nấy cần cù gây dựng cơ nghiệp
không được ăn chơi xa đọa.
Trẻ con theo đuổi nghiệp học hành, ngày tháng chuyên cần đèn
sách nên được miễn trừ lực dịch để dấy lên không khí học hành. Nếu
có ai đó không chuyên vào việc học nhưng vẫn ra ứng thí, ngày có sắc
chỉ đến làng cũng trừ cho việc lực dịch để rộng đường cho kẻ sĩ,
ứng thí ở trường thi nào cũng được.
2. Lấy lòng tôn kính để thờ thần, tế chủ từ nay về sau biện cỗ
chay phải luân phiên nhau trông nom, từ trưởng thôn những người tuổi Ất
Sửu, mỗi người 1 lần cho đến hết, đều thuận tình theo số tuổi, tính
xuống đến 18 tuổi, rồi quay lại từ trưởng thôn, cứ thuận theo như vậy
mà làm. Nếu đến lượt mình thì đám trung nam sẽ được miễn lao dịch 1
tháng, lễ dâng tùy theo hoàn cảnh gia đình giàu hay nghèo, giàu không
quá 10 quan tiền cổ, người nghèo không dưới 3 quan tiền cổ, phải tinh
khiết, không nhất thiết phải tìm mua những lễ vật xa xỉ tốn kém, lại
biện 1 nồi cơm, 1 vò rượu, 2 phong trầu cau, không được yêu sách sinh
sự. Đến ngày đó, các vị quan viên sắc mục, Xã trưởng, Thôn trưởng tế
chỉnh áo mũ kính tế theo như nghi thức, quan chủ tế hôm đó phải cho
phép những người phụng sự nhập tế, tế xong chiều theo thứ tự từ trên
xuống dưới mà chia đều lộc thánh. Bốn giáp mỗi giáp biện 1 mâm cỗ,
cho những người ứng tế 2 cỗ, còn 2 cỗ biếu 4 thôn cùng Giáp trưởng, 4
con lợn của 4 giáp kính biếu quan viên 1 thủ, sắc mục 1 thủ, hậu tuần
1 thủ, đương dịch, Xã trưởng 1 thủ, hậu phật 1 con lợn, Thủ từ 1
miếng thịt, nếu không có Xã trưởng thì cho 4 thôn 1 thủ.
Các tiết trong cả năm: như ngày mông 7 tháng Giêng, mông 2 tháng 7,
mồng 2 tháng 12, 20 tháng 5, 20 tháng 7…bản giáp chiếu thu mỗi giáp 3
quan viên, mỗi người 36 văn, mọi người thay phiên nhau mu gạo thổi xôi,
không được làm cơm như trước nữa, chỉ cho phép dùng cơm trong ngày,
không được để thừa lại. Các vị trưởng thôn thay phiên nhau vào từng
nhà, nhà ấy chỉ có củi khô, muối, trầu cau, nước trà, rau cỏ mà
thôi, còn như các loại cá, thịt ngon không được giở ra, cho đến các
tiểu tiết đều theo lệ của thôn đã định.
Hàng năm lệ lấy ngày mồng 10 tháng 2 làm ngày Xuân tế, lấy ngày
14 tháng 8 làm ngày Thu tế.
Xuân Thu nhị kỳ, hoặc cầu phúc hoặc xướng ca, thì thứ vị cũng
phải lấy lễ làm đầu. Chính giữa là quan viên, sắc mục, xã Thôn
trưởng cùng ngồi tế, tiếp đến là người bản giáp tùy theo tuổi tác,
không được làm ồn ào huyên náo thất lễ. Đến việc lo mâm xôi phụng sự
mỗi ngày cũng do các vị quan viên sắc mục, Thôn trưởng luân phiên chỉnh
biện; Thông trưởng lại được nhận 1 miếng thủ lợn, 1 vò rượu, 1 mâm
xôi, tiền bổng thì các vị quan viên sắc mục, xã Thôn trưởng đảm
nhiệm; đến như các trò vui cũng do các vị quan sắc mục, xã Thôn
trưởng cùng đảm nhiệm.
Hàng năm đến ngày lễ cầu an, Giáp trưởng của mỗi giáp thu của
mỗi người 34 văn cổ tiền, 1 bát gạo, đem ra đinh, mỗi giáp cắt cử 1
mâm bát đĩa do Xã trưởng lo liệu. Nếu không có Xã trưởng thì Thủ từ
có thể làm thay, công việc hoàn tất thì chiếu tên chia đều trong đình.
Hàng năm có lệ làm [Xôi ván], Giáp trưởng của mỗi giáp nhận
của mỗi người 1 bát gạo, 10 văn tiền, mỗi thôn giao cho 8 nhà lo việc
kính tế, tế xong đem về các nhà ở 4 thôn và chia đều.
Lễ Xử thử (vào ngày 23 tháng 8), Giáp trưởng mỗi giáp nhạn của
mỗi người 15 văn cổ tiền, lợn, gạo, rượu, muối, lê xong chia đều ở
đình, nếu số tiền bị thiếu thì Xã trưởng, Thôn trưởng phải đứng ra
lo liệu.
Lễ đuổi châu chấu: Giáp trưởng mỗi giáp nhận của mỗi người 10
văn cổ tiền rồi giao cho Xã trưởng, Thôn trưởng chi dùng.
Đương dịch, Xã trưởng chiếu theo thứ tự thu các loại tiền tô,
tiền trai, nếu như không có Xã trưởng thì 4 thôn làm thay, số tiền tô
trai đó hạn cho vòng 1 tháng phải nộp hết, số tiền còn lại hạn trong
vòng 3 tháng phải nộp hết, đến hết hạn nộp trong vòng 5 ngày nếu
người nào nộp chậm, nộp muộn, không nộp thì bị xã thôn, trưởng thôn
tróc nã. Đến việc chiếu bổ tiền dung mà không biện tiền lợn, rượu
thì sẽ tính gộp vào tiền tang; còn như số tiền thu của người ngoài
thì xã, thôn cũng nhận lấy để làm lệ hành lý, lại cho hạng trung nam
5 mạch tiền cổ, còn những người già cả thì cho mỗi xã 1 suất, hễ
là tiền ứng dịch thì cho Giáp trưởng thu nhận. Hàng tháng: hạng lão
3 văn cổ tiền, chính đinh 6 văn cổ tiền sau đó giao cho xã để chi dùng.
Người nào đi xa đã đầy tháng thì cho phép được phạn giới (trông nom
việc nấu cơm) mỗi tháng 2 giờ, mỗi giờ 2 người với số tiền là 24 văn
tiền cổ, không được vượt quá. Nếu gặp việc đặc biệt thì số tiền
hàng tháng không giao cho các vị quan viên, sắc mục, số tiền còn lại
chiếu theo xuất mà bổ đầu, không được bổ tiền riêng lẻ bừa bãi.
Để lo liệu công việc, Xã trưởng phải theo lệ làm cỗ chay, như
vậy bốn mùa trong cả năm không phải biện các lễ vật khác, tháng Tư
đốt tiền vàng, tháng Chạp đốt tiền vàng, ngày mồng 1, mồng 2, mồng 3
Giêng, ngày mồng 5 tháng 5…cũng nên tùy theo số người và số lễ tiết
mà chiếu theo suất để bổ tiền, số tiền thu được sẽ để chi dùng,
không được cứ vin theo lệ cũ mà tiêu lạm vào.
4. Trong làng nếu có người nào được vinh thân như mới được bầu
chức Xã trưởng, mới trúng khao trưởng hay các chức tạp lưu khác mà
thành đạt thì phải làm lễ khao vọng gồm: 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 100
khẩu trầu, 5 quan tiền cổ, không được yêu sách, các bậc quan viên như
Giáp trưởng, Thôn trưởng được miễn, Xã trưởng nào đã hết nhiệm kỳ
trở lên cũng được trừ miễn. Những người ngồi theo thứ vị ở trong
đình không được chiếm chỗ của bốn giáp, nếu vắng mặt cũng được chia
phần.
5. Mỗi người ở trong làng ai đến 50 tuổ và 65 tuổi, được lên bàn
trên thi hàng năm vào đúng ngày mồng 8 tháng Giêng phải nộp lễ gồm: 1
mâm xôi, 1 vò rượu, 100 miếng trầu cau, 1 thủ lợn. Trong số những người
ngồi ăn uống tại đình nếu có thế lực thì được mời riêng vào ngày
khác chứ không được đòi hỏi yêu sách.
6. Trong làng định lệ lấy ngày mồng 7 tháng Giêng hàng năm là
ngày có thanh niên được nhập và hàng hương ẩm, trung nam lên Thôn
trưởng, Thôn trưởng được lên lão hạng và lão hạng lên lão nhiêu. Cũng
lấy lệ vào tháng ấy luân phiên chức Giáp trưởng của từng giáp. Đến
ngày mồng 2 tháng 7 lại thay đổi luân phiên giữa số người của bàn nhị
và bàn tam mỗi người 1 lần. Nếu người nào đó giữ chức chưa đủ 3
tháng mà bỗng thay đổi thì cho phép bàn nhị luân phiên nhau thay thế
chứ không được thay đổi lung tung.
7. Trong làng nếu như có người nào đã nhập vào hàng hương ẩm mà
lại xin ra rồi lại xin vào thì tuy đã dâng cỗ chay thì lúc xin vào
cũng phải làm như vậy sau mới đến lượt người khác. Về chỗ ngồi thì
chỉ được ngồi sau những người cùng tuổi, ngày ra phải nộp 3 mạch cổ
tiền, ngày vào phải nộp 6 mạch cổ tiền cho các vị sắc mục, quan
viên, Xã trưởng. Thôn trưởng của giáp ấy đồng ý mới được.
8. Lễ Lan Giai: Nhà nào có việc biện lễ gồm: 6 mạch cổ tiền, 1 mâm xôi, 1
vò rượu, 100 miếng trầu cau, 1 thủ lợn đến xin với các vị quan viên, sắc mục, Xã
Thôn trưởng, Hương lão ở trong đình. Ngoài lễ Lan giai còn phải chuẩn bị thêm 1
mâm xôi, 1 vò rượu, trầu cau mỗi người 10 miếng, 1 chân giò lợn, 6 mạch cổ tiền
nộp cho thôn, không được yêu sách (Lan giai ở bên ngoài cũng như vậy).
9. Trong thôn nhàn ào có tiệc rượu ăn uống thì phải kính biểu các vị sắc
mục ở đình, cho phép được đếm số người để chia, người nào vắng vì công việc cũng
được chia phần, còn số người ở mỗi mâm thì trên 5 dưới 4, hoặc trên 6 dưới 5,
không được theo nếp cũ, thứ tự chỗ ngồi ở bàn giao cũng y như vậy.
10. Lệ làng hễ có người được hưởng bổng lộc ở bên ngoài thì các vị sắc
mục, Xã trưởng, Hương lão cùng 4 thôn cũng được thụ hưởng.
11. Trong làng có kẻ mưu mẹo, ngông cuồng ăn trộm tài sản của người khác
hoặc gian dâm loạn luân, bất hiếu bất mục, lấy vợ lấy chồng không theo pháp luật
v.v…thì các vị quan viên, sắc mục, Xã Thôn trưởng cùng họp để phạt thịt rượu,
bắt nộp phạt 5 quan cổ tiền, bắt ngồi phạt tại đình, không theo lệ cũ, nếu trả
về 4 giáp cũng vẫn phải chịu tội.
12. Các lệ hậu Thần, hậu Phật: từ nay về sau không được tự tiện sử dngj mà
phải giao cho 4 giáp thay nhau canh tác để lo việc tế tự.
13. Nhà có tang nếu tỏ lòng thương xót thì nên làm đơn giản, trước ngày
đưa tang, tang chủ chỉ cần biện 1 mâm xôi 1 vò rượu, 1 chiếc thủ lợn, 50 miếng
trầu cau nộp cho bản giáp. Đến ngày đưa ma, từ 36 người trở lên phải nộp 3 quan
sử tiền, 24 người trở lên phải nộp 22 quan sử tiền, 12 người trở xuống thì bản
giáp thương lượng không phải nộp tiền. Người mất cũng chia theo tuổi tác, thứ tự
sang hèn trên dưới, người có chồng phải theo choongfn ếu đáng vái thì phải vái,
nếu không phải vái thì không vái, không có lệ nạp tiền xôi, giữa đường đưa đám
đứng lại tế thì bản giáp lấy 1 mâm xôi, nếu có lễ rước vong thì phải nộp cho bản
giáp 1 quan tiền sử. Nếu có Hội Tư văn tham gia trợ tế thì cũng theo ý như lệ cũ
mà thôi. Còn về cỗ bàn của mỗi đám thì tùy theo gia canh giàu nghèo, có thể nộp
thay bằng bò, xôi, rượu cũng được. Nếu có nhà nào gia cảnh túng bấn quá thì tự
lo liệu việc đưa ma, không nhờ tới bản giáp trợ giúp thì phải nộp cho bản giáp 1
quan tiền sử, 1 bình rượu mà thôi. Đến ngày giỗ đầu của người chết thì các vị
sắc mục ở đình không được sinh sự yêu sách.
Những điều vừa nêu ở trên là để mọi người cùng thực hiện theo. Nước có
pháp luật, nhà có kỷ cương, những việc phức tạp phiền hà thì nên làm cho giản
dị. Chẳng qua chỉ chép lại sự thấm nhuần sùng thượng lễ nghĩa mà thôi. Còn lại
những lễ tiết nhỏ thì hãy theo lệ cũ. Bổn giáp trong xã đều theo thế mà làm. Nếu
có giáp nào không tuân theo lệ đó thì 3 giáp còn lại sẽ tróc nã người nào của
một giáp ấy mà không tuân theo thì mọi người sẽ phạt người đó rượu, lợn, 5 quan
cổ tiền, quyết không tha. Nay lập khoản ước.
Ngày 13 tháng 3 năm Vĩnh Khánh thứ 4 (1732)
Lập khoản ước.
- Điều lệ xã Đông Ngạc, Từ Liêm
Các vị quan viên Hương lão, Xã trưởng, Thon trưởng cùng toàn dân trên dưới
xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai [Lập hương ước].
Bởi lẽ bản xã trước đây có vị quan được tặng Công bộ Thượng thư, tước Lộc
Quận công là Phạm tướng công và bà vợ cả là Lệnh nhân Phạm Thị cúng cho xã 9 mẫu
ruộng và 240 quan tiền cổ để biện lễ thờ cúng. Nay mọi người trong bản xã nộp
bản, truy nhớ công ơn của Tướng công vì trước đây khi sinh thời ông đã trùng tu
miếu mạo, dâng áo chầu. Tướng công có công đức như thế với dân và được hưởng thờ
tự theo lễ nghi cúng tế. Vì thế nghi phối hưởng làm hậu Thần; vĩnh viễn không
thay đổi./.
(Cẩm nang tri thức Thăng Long/Vietnam+)