19/08/2010
|
16:13:00
Xích lô trong văn hóa Hà Nội
|
Du khách thăm quan Hà Nội bằng xích lô. (Nguồn: Internet) |
Ngày nay, trên những con phố cổ Hà Nội, người ta dễ dàng nhìn thấy những dòng xe
xích lô chở khách du lịch đi dạo. Rất nhiều du khách nước ngoài, và cả nhiều
người Việt Nam đã chọn phương tiện này để khám phá những nét đẹp phương Đông và
cuộc sống của người dân trên phố cổ.
"Thú vị và ấn tượng!" là câu cảm thán của mỗi du khách khi lần đầu tiên
được du lịch bằng xe xích lô trên đường phố Hà Nội.
Xe xích lô là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, có ba bánh
dùng để vận chuyển khách hoặc hàng hóa, thường có một hoặc hai ghế cho khách và
một chỗ cho người lái. Tiện lợi, thân thiện và thoải mái là những gì mà chiếc xe
xích lô đem lại.
Xích lô, nét trầm Hà Nội phố
Trong cuốn sách “Hà Nội giai đoạn 1873-1888” của André Masson, một
viên chức Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương có viết: Khi các đường phố (Hà Nội)
có thể đi lại được, đầu năm 1884, Trú sứ Đông Dương là Bonnal cho nhập từ Nhật
Bản hai chiếc xe “djinn rickshaws” (sau này được gọi phổ biến là pousse-pousse)
trong đó một chiếc dành cho Tổng đốc để sao chép lại. Sau đó, một nhà thầu Pháp
đã thuê những người thợ đất Hà thành dựa vào chiếc xe kéo này chế tác ra khoảng
50 chiếc xe kéo tương tự cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã dần dần trở nên
quen thuộc trong các đường phố Hà Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi
châu Âu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa.
Ban đầu, xe kéo được các nhân viên Pháp và quan lớn của Hà Nội mua và sử
dụng. Càng về sau, nó trở thành biểu tượng cho sự giàu sang của các thương gia
Hà thành. Mỗi người sắm xe kéo đều có một người chuyên kéo xe gọi là “culi” và
đôi khi còn thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi
bên cạnh người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi
trên xe là phụ nữ. Theo thời gian, chiếc xe kéo được cải tiến về cấu tạo như
bánh xe được bọc vỏ cao su, đặt lò xo giữa bánh xe và ghế ngồi, trang trí thêm
cho sang trọng...
Xe kéo ra đời làm thay đổi hẳn tư duy đi lại của người dân kẻ chợ. Trước
đó người dân Việt Nam chủ yếu di chuyển bằng thuyền bè trên sông; trên bộ, chủ
yếu là cưỡi ngựa hay di chuyển bằng kiệu, võng. Tuy nhiên, đó là dành cho các
quan, quý tộc hay người giàu, còn đại đa số nhân dân đều di chuyển bằng đôi chân
của mình.
Nhiều năm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần đầu tiên xuất hiện
trong trung tâm thành phố xe đạp được nhập từ Saint Etienne, Pháp. Và chiếc xe
đạp đã được gắn vào phía sau của chiếc xe kéo, thế là chiếc xe xích lô đã ra
đời. Xe xích lô đã nối nghiệp xe kéo, đóng vai trò quan trọng trong cải tiến
phương tiện đi lại trên các phố phường Hà Nội.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xích lô vẫn chưa nhiều. Trong thời tạm
chiếm (1947-1954) loại xe này phát triển mạnh nhờ chiến tranh nên đô thị ngày
một đông dân, trong khi Hà Nội chỉ có mấy tuyến xe điện từ trung tâm Bờ Hồ ra
các cửa ô (xe ôtô đã phát triển nhưng chỉ giới hạn ở các gia đình khá giả. Xe
taxi mới chỉ lác đác, phương tiện chủ yếu vẫn là xe đạp).
Tượng trưng cho một nền văn minh ngoại nhập, chiếc xe kéo chỉ tồn tại tới
khi cách mạng thành công, chính quyền cách mạng đã cấm xe kéo tại thủ đô Hà Nội
vì coi đó là hình thức người bóc lột người của dân thuộc địa. Đây được coi là
giai đoạn kết thúc số phận của chiếc xe kéo sau hơn 60 năm xuất hiện trên đường
phố Hà thành. Đến thời điểm này, xe xích lô mới thực sự lên ngôi và độc quyền
dịch vụ giao thông công cộng.
Vốn là loại xe vận chuyển khách trong nội thị, đến thời cải tạo xã hội chủ
nghĩa thì xích lô cũng bắt đầu vào làm ăn tập thể, hơn nữa quan niệm xã hội thay
đổi khiến người ngồi trên xe cho người khác nai lưng đạp cũng gây cái cảm phiền
như có người bóc lột và người bị bóc lột (cho dù có thanh toán sòng phẳng).
Chẳng bao lâu, xích lô được chuyển thành phương tiện chủ yếu là để chở
hàng. Do vậy, một mặt nó được thiết kế vững chãi hơn, bớt tiện nghi hơn, cái đệm
được thay bằng tấm gỗ thô sơ nhưng chịu tải tốt, cái tay ngai bè ra để có thể
chở được vật cồng kềnh, bớt đi mui che nắng và tấm ni lông chắn mưa, lại thêm
hai cái móc gắn vào chỗ để chân của khách để khi cần có thể kéo xe vượt qua
những địa hình khó...
Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, xích lô trở thành phương tiện đắc
lực phục vụ sản xuất và chiến đấu. Nó chở hàng hóa tại những nơi ôtô không đi
được; chở người đi sơ tán, chở thương binh đến nơi cấp cứu, chở các phương tiện
chữa cháy, chở đạn dược, khí tài ra trận địa ... Xích lô có thể chở được tới
hàng trăm kg hàng hóa. Chiếc xích lô đáng có vị trí trong bảo tàng Hà Nội thời
chiến.
Bước vào thời đổi mới, nhiều quan niệm được thay đổi, nhu cầu đời sống
ngày một phong phú, người nước ngoài đến du lịch càng nhiều, xích lô lại có thêm
chức năng dịch vụ thương mại phục vụ khách du lịch bên cạnh chức năng vận chuyển
hàng hóa.
Theo thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, toàn thành phố hiện có
năm công ty hoạt động vận chuyển bằng xe xích lô với 388 xe. “Sans-Souci” là
hãng xích lô lớn nhất tại Hà Nội với khoảng 160 chiếc hoạt động chuyên nghiệp.
Về lịch sử ra đời của xe xích lô
Cũng như lịch sử chiếc xe đạp, sự ra đời của chiếc xích lô đầu tiên là một
câu chuyện không rõ ràng và đầy tranh cãi ở nhiều nước. Cho đến nay, cả người
Nhật, người Mỹ cũng đưa ra những bằng chứng cho rằng, người của họ phát minh ra
chiếc xích lô đầu tiên vào năm 1868 hoặc 1848 do những người thợ rèn làm theo
đặt hàng của các nhà thờ.
Từ “xích lô” có gốc từ “cyclo” trong tiếng Pháp. Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1939 do một người dân miền Charente,
Pháp, tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao phát minh ra. Phải vất vả lắm
ông mới vận động Bộ Công chính công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành. Nhưng
xích lô lại không trở thành phương tiện giao thông ở Pháp mà thành phố đầu tiên
sử dụng loại phương tiện này là ở Phnom Penh, Campuchia. Từ Phnom Penh, Coupeaud
đã tổ chức một cuộc hành trình tới Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Hai
người đạp thuê đã thay phiên nhau đạp một mạch gần 200km hết có 17 giờ 23 phút.
Tuy nhiên, tài liệu của Nhật được giới sử học tin cậy hơn cả, vì nó có
bằng chứng rõ ràng Izumi Yosuke, Suzuki Tokujiro và Takayama Kosuke, là những
người sáng chế ra chiếc xích lô vào năm 1868, đầu kỷ nguyên Minh Trị, để thay
cho việc chuyên chở hàng hóa trên các đường phố ngắn của Tokyo bằng ngựa.
Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền Tokyo cấp giấy phép ba người trên được
sản xuất và bán xe xích lô. Vào năm 1872, đã có khoảng 40 chiếc xích lô hoạt
động tại Tokyo và trở thành phương tiện vận chuyển công cộng chính yếu của nước
này./.
Kim Yến (TTXVN/Vietnam+)